Giải quyết các vụ án hành chính về đất đai: Thực trạng và giải pháp

30/06/2022 22:15 | 1 năm trước

(LSVN) - Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Đất đai có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người, nó có ý nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Xã hội ngày càng phát triển, các tranh chấp hành chính càng trở nên phức tạp và rắc rối hơn, đặc biệt trong đó là các vụ án hành chính liên quan đến vấn đề đất đai. Các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất phức tạp, phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội.

Ảnh minh họa.

Thực trạng pháp luật về giải quyết vụ án hành chính liên quan đến đất đai

Giải quyết vụ án hành chính về đất đai là hoạt động tố tụng của Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khác nhằm đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của các chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước về đất đai bị các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện.

Khởi kiện vụ án hành chính về đất đai

Đối với khởi kiện vụ án hành chính về đất đai, không phải bất cứ ai cứ có đơn khởi kiện là Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án. Để được Tòa án thụ lý một vụ án hành chính về đất đai thì người khởi kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện như sau:

Một là, về người khởi kiện

Thứ nhất, người khởi kiện phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính. Cá nhân là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, cá nhân là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính về đất đai được xác định là người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có quyền khởi kiện vụ án hành chính về đất đai.

Thứ hai, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích phải bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Do đó, khi tham gia khởi kiện vụ án hành chính về đất đai thì người khởi kiện phải chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thì mới có quyền khởi kiện vụ án ra Tòa án để giải quyết.

Hai là, về đối tượng khởi kiện.

Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai bao gồm: quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Đồng thời quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, trừ các quyết định, hành vi sau đây: quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng; quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.

Ba là, thời hiệu khởi kiện.

Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được quy định khác nhau đối với từng đối tượng khởi kiện. Theo Điều 116 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện quyết định quản lý hành chính đất đai là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính đó.

Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.

Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về đất đai là kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính cho đến ngày khởi kiện.

Bốn là, quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Năm là, thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền bắt buộc bao gồm thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ. Thẩm quyền theo cấp xét xử và theo lãnh thổ nói chung và đối với các vụ án hành chính đất đai nói riêng được quy định tại Điều 31 và 32 Luật Tố tụng hành chính.

Sáu là, hình thức và nội dung đơn khởi kiện phải đầy đủ các nội dung chính: ngày, tháng, năm làm đơn; Tòa án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung quyết định hành chính hoặc tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính về đất đai; nội dung giải quyết khiếu nại (nếu có); yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết và cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

Thụ lý vụ án hành chính về đất đai

Thụ lý vụ án hành chính là việc Tòa án chính thức chấp nhận yêu cầu giải quyết tranh chấp hành chính của người khởi kiện. Việc khởi kiện ngoài đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện còn đáp ứng các điều kiện khác như nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định và không thuộc các trường hợp bị trả lại đơn khởi kiện.

Thời điểm thụ lý vụ án hành chính về đất đai: Tòa án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết việc thụ lý.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, chánh án Tòa án phân công một thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây: yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện quy định; chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính. Kết quả xử lý đơn của thẩm phán phải được thông báo cho người khởi kiện, phải ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo trên cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Thủ tục đối thoại và chuẩn bị xét xử vụ án hành chính về đất đai

Đây là một giai đoạn của quá trình tố tụng, được thực hiện trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Điều 20 Luật Tố tụng hành chính quy định: Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật này. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào Tòa án cũng có trách nhiệm tiến hành đối thoại, bởi lẽ có những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại khi giải quyết, đó là những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 Luật Tố tụng hành chính.

Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hành chính về đất đai

Thứ nhất, về xác định chủ thể khởi kiện. Theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì chủ thể khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính được ban hành hoặc thực hiện. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất ngoài cá nhân, cơ quan tổ chức theo quy định nêu trên còn các đối tượng khác, đó chính là cộng đồng dân cư gồm những người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp,…; cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất... Những đối tượng này có thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và được công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng việc thành lập và hoạt động không cần đăng ký theo quy định của pháp luật. Những đối tượng này có được quyền khởi kiện vụ án hành chính về đất đai hay không thì hiện tại pháp luật còn bỏ ngỏ, chưa có quy định rõ ràng. Những chủ thể này vẫn có thể chịu ảnh hưởng bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quá trình sử dụng đất, tuy nhiên Luật Tố tụng hành chính không có quy định về vấn đề này. Do đó, cần bổ sung chủ thể có quyền khởi kiện hành chính liên quan đến việc sử dụng đất để có sự đồng nhất giữa Luật Đất đai và Luật Tố tụng hành chính để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng là cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo.

Thứ hai, về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai. Theo quy định thì đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai là các quyết định hành chính, hành vi hành chính có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua thực tế cho thấy, có rất nhiều quyết định hành chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích của người dân như quyết định phê duyệt phương án bồi thường tổng thể, quyết định phê duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất tại địa phương... nhưng không thuộc đối tượng khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, dẫn tới nhiều thiệt hại trên thực tế.

Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính về đất đai. Theo Điều 30, 31, 32 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khởi kiện liên quan đến quyết định hành chính quản lý về đất đai.

Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai của các cơ quan nhà nước cấp cao ở Trung ương: các bộ và cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng tiếp nhận khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân cấp huyện, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

Quy định như trên bảo đảm sự độc lập trong xét xử đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, có thể thấy đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa thực sự bảo đảm vô tư, khách quan và độc lập trong xét xử.

Thứ tư, về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính. Điều 130 Luật Tố tụng hành chính quy định thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri như sau: 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này; 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này. Như vậy là còn thiếu quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp tại khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính(1), vô tình dẫn tới sự không thống nhất về mặt thời gian xét xử đối với những trường hợp này.

Giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hành chính về đất đai

Thứ nhất, để công tác quản lý nhà nước về đất đai được hiệu quả, thống nhất và đồng bộ cần khắc phục những vướng mắc trong quan hệ giữa Luật Đất đai với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Nhà ở…

Thứ hai, Luật Tố tụng hành chính đã quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện được chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, những quyết định hành chính, hành vi hành chính cấp tỉnh thì vẫn trao quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh dẫn tới việc xét xử chưa thực sự hiệu quả, chưa bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử. Để thẩm phán độc lập xét xử và giải quyết một cách khách quan và hiệu quả các vụ án hành chính thì nên trao quyền xét xử vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh cho Tòa án nhân dân cấp trên là Tòa cấp cao để bảo đảm hoạt động xét xử vụ án hành chính về đất đai được công bằng, khách quan.

Thứ ba, quy định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính. Việc thiếu quy định đối với thời hạn chuẩn bị xét xử của các trường hợp này dẫn tới việc áp dụng thời gian chuẩn bị xét xử chưa thống nhất, cần quy định thêm về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với những trường hợp này và áp dụng thời gian là 02 tháng để rút gọn hơn thời gian chuẩn bị xét xử khi những quyết định này đã mất thêm thời gian giải quyết khiếu nại để bảo đảm thời gian giải quyết vụ án hành chính hiện nay.

Thứ tư, cần nâng cao chất lượng quản lý hành chính về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính cần có sự phối hợp, trao đổi để đưa ra những giải pháp cụ thể giúp phòng ngừa và hạn chế các vụ án liên quan đến đất đai.

Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, khi ban hành các quyết định hành chính, hoặc thực hiện hành vi hành chính cần chú trọng đến các quy định pháp luật, đặc biệt các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai. Đây là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm trong đời sống xã hội, ngoài áp dụng quy định pháp luật cần phải xem xét cả về thực tiễn quá trình quản lý, sử dụng đất, nhất là công tác cưỡng chế thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, cần phải thực hiện đúng quy trình, thủ tục, thẩm quyền, bảo đảm tính công khai, dân chủ và quyền lợi của nhân dân. Khi có khiếu kiện, chỉ đạo xem xét, giải quyết kịp thời, đúng trình tự, thủ tục, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là các quy định pháp luật liên quan đến đất đai, chính sách đến bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư.

Công tác giải quyết khiếu nại hành chính cũng cần đặc biệt quan trọng. Cần tiến hành đối thoại qua đó xác minh để có kết luận giải quyết khiếu nại được khách quan, chính xác. Chủ động chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới. Phát huy tối đa hiệu quả việc đối thoại, gặp gỡ, trao đổi với người khiếu nại, đặc biệt là đối với các vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, gay gắt, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại.

Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, phối hợp tuyên truyền, vận động bảo đảm cho các quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện có hiệu quả. Đồng thời giải quyết dứt điểm ngay các vụ việc mới phát sinh tại cơ sở.

Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng. Cần nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu được các quy định của pháp luật về đất đai, hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để tuân thủ các quy định pháp luật về đất đai.

Ngoài ra, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại các phiên tòa là điều rất quan trọng. Thông qua việc xét xử công khai các vụ án hành chính về đất đai, người dân theo dõi, quan sát, đánh giá hội đồng xét xử, nắm được trình tự, thủ tục tố tụng và các nội dung giải quyết, các quy định pháp luật áp dụng. Từ đó nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân, giúp chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng một cách nghiêm túc và hiệu quả.         N.P.H

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

3. Luật Đất đai năm 2013.

4. Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính.

5. Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP.

(1) Khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính quy định như sau: Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.

NGUYỄN PHI HÙNG

Tòa án Quân sự Quân khu 4

Pháp luật về dân chủ trực tiếp trong Hiến pháp năm 2013