/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Giới hạn xét xử sơ thẩm: Mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự

Giới hạn xét xử sơ thẩm: Mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự

03/09/2023 07:01 |

(LSVN) - Giới hạn xét xử sơ thẩm là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ và toàn diện chế định này sẽ giúp các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ trong việc giải quyết vụ án hình sự; góp phần bảo đảm quyền con người và bảo vệ công lý. Tuy nhiên, khi đề cập đến nội dung chế định này hiện vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều. Bài viết phân tích mối quan hệ giữa nội dung chế định giới hạn xét xử sơ thẩm với các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, từ đó giúp có cách nhìn toàn diện hơn trong nhận thức, lập pháp khi đề cập đến chế định này.

Ảnh minh họa.

Giới hạn xét xử (GHXX) sơ thẩm là một chế định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý để phân định phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ. Tuy nhiên, nội dung về giới hạn xét xử sơ thẩm chưa được nhận thống nhất về mặt nhận thức, lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Để nhìn nhận bản chất của chế định này một cách toàn diện, từ đó thống nhất về mặt nhận thức, lý luận có ý nghĩa quyết định trong việc lập pháp là hết sức cần thiết và là yêu cầu khách quan. Với yêu cầu đó, thiết nghĩ nên tiếp cận từ những chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự (TTHS), đó là chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội và mối quan hệ của chúng thể hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.

 Chức năng xét xử trong giới hạn xét xử sơ thẩm GHXX sơ thẩm là một chế định pháp lý quan trọng có liên quan đến nhiều chế định khác trong TTHS. Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh viện kiểm sát truy tố thì tòa án trả hồ sơ để viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.

Bản cáo trạng của viện kiểm sát chính là đối tượng duy nhất của hoạt động xét xử của tòa án tại phiên tòa sơ thẩm. Hay nói cách khác, cơ sở hình thành GHXX sơ thẩm của tòa án chính là bản cáo trạng của viện kiểm sát. Có quyết định truy tố của viện kiểm sát thì tòa án mới có cơ sở để mở phiên tòa và hoạt động xét xử của tòa phụ thuộc vào nội dung bản cáo trạng. Những quyết định của tòa không nằm ngoài phạm vi truy tố của viện kiểm sát về bị cáo và hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tòa án vẫn có thể xét xử bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt (theo cùng tội danh) mà viện kiểm sát truy tố hoặc xét xử bị cáo về tội danh bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà viện kiểm sát truy tố. Mặt khác, tòa án cũng có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát truy tố, nếu thấy cần thiết và đã trao đổi với viện kiểm sát mà viện kiểm sát vẫn giữ nguyên không thay đổi tội danh đã truy tố. Qua đó, có thể khẳng định bản chất của GHXX sơ thẩm “là giới hạn mà pháp luật cho phép” - ở đây chính là giới hạn thực hiện chức năng xét xử của tòa án sơ thẩm. Giới hạn đó do luật định mà tòa án không thể vượt qua. Nói khác đi, GHXX sơ thẩm chính là phạm vi thực hiện chức năng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm do luật định nhằm mục đích bảo đảm sự phân định rạch ròi giữa các chức năng cơ bản trong TTHS tại phiên tòa sơ thẩm.

Nếu như tranh tụng phản ánh mối quan hệ qua lại, ràng buộc chủ yếu giữa hai chức năng đối trọng: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa thì vấn đề GHXX phản ánh mối quan hệ gì? Vấn đề này hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo tác giả Đặng Quang Phương, GHXX là sự thể hiện nội dung của vấn đề nguyên tắc độc lập xét xử. Không đồng tình với quan điểm này, tác giả Phạm Hồng Hải lại cho rằng GHXX là sự khẳng định một trong những nội dung của quan hệ chế ước giữa viện kiểm sát và tòa án mặc dù nó có quan hệ với nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tác giả Nguyễn Hoài Nam lại cho rằng: Giới hạn của việc xét xử là để quy định phạm vi mối quan hệ giữa hai chức năng truy tố (viện kiểm sát) và xét xử (tòa án). Người viết cho rằng, GHXX không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa hai mà giữa ba chức năng cơ bản của TTHS. Tuy nhiên, trong GHXX phải thừa nhận rằng quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử được thể hiện nổi trội hơn cả, mặc dù chức năng bào chữa cũng phải phụ thuộc vào phạm vi truy tố của viện kiểm sát để thực hiện. GHXX ở đây là GHXX ở phiên tòa sơ thẩm nên cũng có thể nói thực chất GHXX là mối quan hệ giữa viện kiểm sát - cơ quan nhân danh Nhà nước truy tố bị cáo ra trước pháp luật, thực hành quyền công tố và tòa án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Nhưng mối quan hệ này được xem xét và giải quyết trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Do đó, GHXX thực chất là nguyên tắc xử lý một cách hài hòa mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản của TTHS tại phiên tòa sơ thẩm.

Tuy nhiên, hoạt động buộc tội của viện kiểm sát và hoạt động bào chữa của bị cáo, người bào chữa (nếu có) sẽ không được tiến hành một cách công khai và đi đến kết thúc nếu chức năng xét xử không xuất hiện. Vì những quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng trước khi xuất hiện chức năng xét xử chỉ là những giả thiết mang tính đơn phương, tuy có giá trị pháp lý bắt buộc đối với một số chủ thể xác định nhưng nó chưa được kiểm tra, đánh giá công khai, trực tiếp tại phiên tòa dưới sự điều khiển của hội đồng xét xử thì xét về mặt pháp lý, chúng vẫn chưa có giá trị bắt buộc phải thi hành. Có nhiều ý kiến cho rằng quy định về GHXX của tòa án là vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án, nên đưa ra phương án sửa đổi điều luật về GHXX theo hướng xóa nhòa ranh giới các chức năng cơ bản của TTHS do các chủ thể khác nhau thực hiện, hạn chế quyền bào chữa của bị cáo và “thoát khỏi” nội dung truy tố của viện kiểm sát. Nhưng thử hỏi chúng ta có thể chấp nhận phương án hoạt động xét xử của tòa án không bị ràng buộc bởi nội dung truy tố được không? Nếu trả lời là “được” tức tòa án vừa xét xử, vừa buộc tội. Lúc đó, bản cáo trạng truy tố của viện kiểm sát không phải là đối tượng duy nhất cho hoạt động mở phiên tòa xét xử sơ thẩm của tòa án, vậy vai trò của viện kiểm sát lúc bấy giờ là gì? vai trò của người bào chữa là gì? (nếu tòa án có quan điểm theo hướng ngược với nội dung truy tố của viện kiểm sát). Không thể cho rằng hoạt động xét xử của tòa án bị giới hạn bởi phạm vi truy tố là ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa án. Độc lập của tòa án đi liền với chức năng xét xử của tòa án, vì nó hết sức cần thiết cho hoạt động xét xử. Tuy nhiên, độc lập đó chỉ mang tính tương đối, tức là sự độc lập của tòa án phải trong giới hạn nhất định để bảo đảm tòa án luôn luôn là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Nếu vượt quá GHXX thì tòa án không còn là tòa án - chủ thể xét xử và lúc này “sự độc lập của tòa án” không còn ý nghĩa. Vì thế, chính GHXX sơ thẩm là yếu tố bảo đảm cho tòa án cấp sơ thẩm luôn là chủ thể thực hiện chức năng xét xử, không lấn sân sang chức năng buộc tội, không biến thành chủ thể của chức năng buộc tội và làm thiệt hại đến chức năng bào chữa.

Mối quan hệ giữa quyền công tố với giới hạn xét xử sơ thẩm

Quyền công tố và thực hành quyền công tố là những khái niệm được đề cập khá nhiều trong TTHS khi nói đến chức năng của viện kiểm sát - cơ quan được Nhà nước ủy quyền thực hiện truy tố người đã có hành vi phạm tội và buộc tội người đó trước tòa án có thẩm quyền. Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước tòa án. Thực hành quyền công tố là hoạt động của viện kiểm sát nhân dân trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (1).

Nội dung thực hành quyền công tố của viện kiểm sát bao gồm những hoạt động sau: khởi tố bị can; truy tố bị can trước tòa án trên cơ sở kết quả điều tra vụ án và chứng minh được người phạm tội; buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa bằng cách công bố bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày lời luận tội và tranh luận trước phiên tòa sơ thẩm, nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị thì có mặt để tham gia xét hỏi và trình bày lời kết luận về kháng cáo, kháng nghị trước phiên tòa phúc thẩm. Thực chất các hoạt động tố tụng này suy cho cùng là để thực hiện chức năng buộc tội của viện kiểm sát trong TTHS.

Mối quan hệ tố tụng giữa viện kiểm sát và tòa án chính thức phát sinh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, chính xác hơn từ thời điểm viện kiểm sát chuyển quyết định truy tố sang cho tòa án. Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án phát sinh trên cơ sở quyết định truy tố của viện kiểm sát. Nói cách khác, tòa án thực hiện hoạt động xét xử trong phạm vi, giới hạn về số lượng bị cáo và hành vi phạm tội mà viện kiểm sát đã truy tố bằng bản cáo trạng. Do đó, chính bản cáo trạng của viện kiểm sát (có thể được xem là sản phẩm bước đầu của việc thực hiện quyền công tố) là cơ sở phát sinh chức năng xét xử của tòa án. Tuy nhiên, việc thực hiện chức năng đó có giới hạn, phạm vi nhất định chứ không phải là vô cùng, điều này được thể hiện trong nội dung quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Quy định này thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước giữa viện kiểm sát và tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mặc dù, chức năng hiến định khác nhau nhưng cùng hướng đến mục đích chung của TTHS nên trong quá trình xác định sự thật vụ án buộc các chủ thể THTT phải “hợp tác” trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ để TTHS vận hành tốt.

Vì thế, viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng buộc tội không những là điều kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình xét xử của tòa án, mà còn là cơ sở bảo đảm cho việc tòa án xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật để tuyên một bản án (quyết định) thực sự công minh, có căn cứ và bảo đảm sức thuyết phục đối với công luận. Ngược lại, chính nội dung GHXX sơ thẩm xác định giới hạn, “cái ngưỡng” mà tòa án phải thực hiện, không được phép vượt qua là điều kiện để viện kiểm sát luôn thực hiện đúng chức năng của mình, không làm thay hoặc “lấn sân” sang chức năng tòa án. Qua phân tích trên, thiết nghĩ để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng mục đích TTHS - giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì các nhà lập pháp cần tiếp tục sửa đổi một số nội dung, hoạt động tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự không phù hợp với chức năng hiến định của các cơ quan TTHS như: vấn đề tòa án có quyền khởi tố vụ án tại phiên tòa; viện kiểm sát rút quyết định truy tố một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố tại phiên tòa xét xử nhưng tòa án vẫn xét xử; quyền được xét xử tội danh nặng hơn của tòa án.

Giới hạn xét xử sơ thẩm và việc bảo đảm quyền bào chữa

Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng và có vai trò đặc biệt là quyền bảo vệ các quyền khác. Khi tham gia tố tụng, pháp luật TTHS quy định cho người bị buộc tội (người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo) có nhiều quyền tố tụng khác nhau trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Tuy nhiên, có thể khẳng định quyền bào chữa là quyền quan trọng đối với họ, tất cả các quyền tố tụng khác có được thực hiện hay không là thông qua việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội.

Bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của TTHS, đối trọng với chức năng buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Chính sự đối trọng này bảo đảm cho hoạt động TTHS được dân chủ, khách quan. “Có buộc tội mà không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa…”(2). Trong khi đó, bản chất của chế định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm là phản ánh mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong việc giải quyết vụ án hình sự. Mối quan hệ này không thể không ảnh hưởng đến chức năng bào chữa vì các chức năng cơ bản của TTHS tồn tại không thể tách rời. Việc xác định rõ ràng và chính xác GHXX cũng như nhận thức đúng về GHXX bảo đảm cho tòa án thực hiện đầy đủ quyền hạn của mình trong quá trình xem xét và giải quyết các vấn đề cụ thể của vụ án. Mặt khác, nhận thức đúng về GHXX còn bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình, đồng thời tránh sự tùy tiện, lạm dụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động truy tố và xét xử.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các công trình nghiên cứu thường tập trung phân tích chế định GHXX sơ thẩm dưới góc độ chức năng tố tụng của viện kiểm sát và tòa án, giải quyết mối quan hệ tố tụng giữa hai cơ quan này mà chưa quan tâm nghiên cứu nhiều đến nội dung chế định GHXX sơ thẩm ảnh hưởng như thế nào đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, trong đó có quyền bào chữa của bị can, bị cáo. GHXX được xác định bởi nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà viện kiểm sát đã truy tố. Tòa án không được xét xử những bị cáo và hành vi chưa được viện kiểm sát truy tố. Nội dung quy định đó thể hiện ở chỗ pháp luật xác định giới hạn của việc xét xử trong phạm vi đã truy tố. Việc xác định đó bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa, phòng ngừa việc xét xử tội phạm không do lỗi của bị cáo, loại trừ việc xét xử những người bị truy tố không đúng theo thủ tục đã được pháp luật quy định. Việc xét xử tại phiên tòa hạn chế trong phạm vi bản cáo trạng và tòa án không được “vượt qua” phạm vi đó. Tùy thuộc vào việc làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, việc buộc tội ở giai đoạn điều tra và truy tố có thể thay đổi. Nhưng tại phiên tòa, tòa án không thể thay đổi việc buộc tội và ra bản án, nếu việc thay đổi đó làm xấu đi tình trạng của bị cáo và vi phạm quyền bào chữa của họ. Vì thế, việc quy định quyền tố tụng liên quan đến các chủ thể tham gia tố tụng là rất cần thiết, nhưng thiết thực hơn, quan trọng hơn cả là việc tạo ra cơ chế bảo đảm để các quyền tố tụng đó được thực hiện trên thực tế.

Kế thừa những quy định trước đó về GHXX, các Bộ luật Tố tụng hình sự của Việt Nam sau này tiếp tục ghi nhận chế định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, giới hạn thực hiện quyền xét xử của tòa án đối với vụ án hình sự. Đồng thời, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về GHXX, nhưng chủ yếu là hướng dẫn cách giải quyết mối quan hệ giữa viện kiểm sát và tòa án trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong GHXX sơ thẩm vụ án hình sự, bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình ở những mức độ, phạm vi nhất định. TTHS là một trong lĩnh vực phức tạp, quyền con người, quyền công dân dễ bị xâm phạm nhất. Vì thế, Nhà nước cần tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo đảm các quyền đó được thực hiện, khi có hành vi xâm phạm phải bị xử lý nghiêm minh. Người bị buộc tội là nhóm người “yếu thế” - người bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội trong mối quan hệ tố tụng với một bên là cơ quan tiến hành tố tụng - được Nhà nước giao thực hiện các chức năng nhất định để truy tố, buộc tội và kết tội người đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS là điều tất yếu, tạo ra ranh giới nhất định để các cơ quan tố tụng hình sự luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, tránh tình trạng lạm quyền, vượt quyền, đồng thời tạo cơ sở, định hướng cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Kết luận

Bản chất của GHXX sơ thẩm là mối quan hệ pháp lý giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử, nhưng không thể không ảnh hưởng đến chức năng bào chữa. Cho nên, việc quy định quyền xét xử của tòa án trong phạm vi, giới hạn xét xử cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chú trọng xem xét đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Có buộc tội thì phải có gỡ tội (bào chữa) và chính sự tranh tụng giữa bên buộc và bên bào chữa sẽ giúp cho tòa án nhìn nhận, xem xét, đánh giá vụ án một cách toàn diện hơn, chính xác hơn, từ đó ra bản án, quyết định “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, thuyết phục xã hội - đó là biểu hiện của một nền tư pháp dân chủ, công bằng.

(1) Xem khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

(2) Nguyễn Thái Phúc (1999), Một số vấn đề về quyền công tố của viện kiểm sát, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Khoa học Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tr.22.

 

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Hồng Hải, Vấn đề giới hạn xét xử trong luật tố tụng hình sự (http://www.phamhonghai.vn/van-de- gioi-han-cua-viec-xet-xu-trong-luat-to-tung-hinh-su-newsview.ápx?cate=248&id=259, ngày 15/7/2014).

2. Nguyễn Hoài Nam , Hạn chế trong quy định giới hạn xét xử của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 13), 2010, tr.29-tr.31.

3. Nguyễn Thái Phúc, Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 về Giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát (số 02), 2019.

4. Đặng Quang Phương, Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ (1995),Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tr.43.

5. Nguyễn Trung Tín, Mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của tòa án”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 10), 2018.

Thạc sĩ TRẦN THỊ ÁNH 

Trường Đại học Kiên Giang

Quy định pháp luật về tội ‘Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự’: Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Nguyễn Mỹ Linh