/ Kết nối
/ Hành vi tố cáo sai sự thật và các hậu quả pháp lý phải đối diện

Hành vi tố cáo sai sự thật và các hậu quả pháp lý phải đối diện

06/11/2024 15:10 |

(LSVN) - Bên cạnh những trường hợp tố cáo mang tính xây dựng, tích cực trong chống tiêu cực, tham nhũng; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, tập thể và của cá nhân thì trong thực tiễn công tác giải quyết tố cáo từ trước đến nay cho thấy, vẫn còn sự việc tố cáo khi chưa rõ hành vi vi phạm, chỉ nghe thông tin rồi phát sinh tố cáo, tố cáo khi không rõ quy định.

Hiện nay, bên cạnh những trường hợp tố cáo mang tính xây dựng, tích cực trong chống tiêu cực, tham nhũng; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, tập thể và của cá nhân thì trong thực tiễn công tác giải quyết tố cáo từ trước đến nay cho thấy, vẫn còn sự việc tố cáo khi chưa rõ hành vi vi phạm, chỉ nghe thông tin rồi phát sinh tố cáo, tố cáo khi không rõ quy định của pháp luật hoặc tố cáo khi không đạt mục đích từ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo các nội dung không đúng sự thật, bịa đặt nội dung tố cáo vì động cơ cá nhân… gây phức tạp tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây ra nhiều hệ lụy đối với xã hội. Vậy, pháp luật hiện nay quy định về vấn đề này thế nào, việc người có hành vi tố cáo gian dối, sai sự thật sẽ phải xử lý ra sao?

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Theo đó, để khuyến khích người dân tham gia tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tố cáo cũng như tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia tố cáo, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo. Trong đó nêu rõ, người tố cáo có các quyền: Thực hiện quyền tố cáo theo quy định của Luật này; Được bảo đảm bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác; Được thông báo về việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo; Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo chưa được giải quyết; Rút tố cáo; Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo; Được khen thưởng, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, người tố cáo cũng có nghĩa vụ là cung cấp thông tin cá nhân theo đúng quy định tại Điều 23, Luật Tố cáo năm 2018; Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo; Hợp tác với người giải quyết tố cáo khi có yêu cầu; Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.

Ngoài ra, để đảm bảo tính chính xác và khách quan khi thực hiện tố cáo cũng như loại bỏ các vụ tố cáo vô căn cứ, bảo vệ danh dự của những người bị tố cáo oan sai, Luật Tố cáo năm 2018 cũng đã quy định các hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện tố cáo.

Trong đó, đối với người có hành vi tố cáo sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm hình sự thì người có hành vi tố cáo sai sự thật có thể sẽ bị xử lý theo Điều 156 Bộ luật Hình sự về tội "Vu khống". Người phạm tội sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng cho đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 07 năm, tùy theo mức độ vi phạm.

Đối với người tố cáo sai sự thật có hành vi lợi dụng việc tố cáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì có thể bị xử lý về tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" theo Điều 331 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người phạm tội bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Người phạm tội cũng bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 - 05 năm.

Đối với việc xử phạt vi phạm hành chính thì căn cứ khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, sửa đổi bởi Nghị định 14/2022/NĐ-CP thì phạt tiền từ 10.000.000 đồng cho đến 20.000.000 đồng đối với: hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Còn về trách nhiệm dân sự thì người có hành vi tố cáo sai sự thật sẽ phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do hành vi tố cáo sai sự thật gây ra.

Luật sư TRẦN XUÂN TIỀN
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Các tin khác