/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hồ Chí Minh và chức danh công tố

Hồ Chí Minh và chức danh công tố

01/09/2025 07:58 |

(LSVN) - Là một quyền mới và rất căn bản chỉ có ở nhà nước dân chủ, nên so với các quyền khác, quyền công tố của nhà nước Việt Nam được hình thành một cách vừa muộn màng, lại vừa khó khăn cả về tên gọi lẫn cả định vị trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Mãi cho đến gần đây sau nhiều lần thay đổi, công tố mới được xác định một cách riêng rẽ do một thiết chế duy nhất thực hiện là Viện Kiểm sát, nhưng lại không được xác định thuộc thành phần của hành pháp hay tư pháp. Bài báo phân tính những biểu hiện, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề nói trên bằng cách đưa chúng về đúng tên gọi và cả vị trí pháp lý theo cách của Hồ Chí Minh thời kỳ thi hành Hiến pháp năm 1946.

Việc hình thành chức danh “công tố viên" nằm trong thành phần cơ cấu của Viện Kiểm sát nhân dân như hiện nay là cả một quãng dài của lịch sử Việt Nam, từ thời kỳ chuyên chế của chế độ phong kiến, thực dân, sang đến cả giai đoạn xã hội chủ nghĩa tập trung bao cấp. So với các chức danh khác trong bộ máy nhà nước, đến nay chức danh này vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng. Nhưng nhìn lại cho đến hiện nay gần 80 năm, thành công về cơ bản là rất lớn và công phần lớn phụ thuộc vào sự sáng suốt của người đứng đầu nhà nước Việt Nam kiểu mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, giai đoạn Người là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa khi mới được thành lập cho đến năm 1960, của giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tuy việc đề xuất, sáng kiến lập pháp ra chức danh công tố, cùng với thiết chế thực hiện có thể không phải là sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng sự chấp nhận, sư ban hành để sáng kiến đó thành hiệu lực thực thi trên thực tế của người đứng đầu nhà nước nhiều khi rất quan trọng. Xin được phân tích sự hình thành chức danh công tố buộc tội, chỉ có ở thời đại dân chủ với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tạo dựng và hình thành nên chức danh này trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

 Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Một trách nhiệm mới của Nhà nước Việt Nam dân chủ, không có ở nhà nước phong kiến và nhà nước thực dân

Quyền công tố có căn nguyên từ quyền kiện cáo của người dân lên các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. được gọi là tố quyền với 2 loại cơ bản; tố quyền dân sự và tố quyền hình sự. Tố quyền dân sự do người dân thực hiện bằng cách gửi đơn lên tòa án, tố quyền hình sự do nhà nước đảm nhiệm. Đó là quyền nhân danh nhà nước vì lợi ích chung đưa phạm nhân ra tòa xin áp dụng một hình phạt.

Sự hiện diện của chức năng công tố trong bộ máy nhà nước như là một biểu hiện của nhà nước hiện đại bởi vì ở thời kỳ phong kiến với nguyên tắc tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước đều trực thuộc nhà xua nên việc phân biệt ra các bộ phân quyền lực nhà nước khác nhau không cần thiết. Mặc dù việc xét xử tội phạm để trừng phạt người phạm tội vẫn phải diễn ra, nhưng về cơ bản do các quan lại được gọi là tri huyện, trì phủ - những cánh tay nối dài của nhà vua, và tiếp theo của Toàn quyền Đông Dương thời Pháp thuộc với nguyên tắc tập quyền thực hiện. Những quan chức này vừa là người điều tra, vừa là người truy tố, vừa là người xét xử.

Đây là biểu hiện sự phát triển của nhân loại về nhận thức bộ máy nhà nước dân chủ tư sản, thể hiện cả một bước tiến của nhân loại về nhận thức tư tưởng từ thời kỳ đêm trường Trung cổ sang thời kỳ Phục Hưng và Khai sáng. Thời kỳ của sự nở rộ các lý thuyết phát triển có cơ sở từ triết học Hy Lạp cổ đại của Socrate, Plato đến Aristotle thành các học thuyết pháp quyền, chủ nghĩa hiến pháp, nhân quyền, quyền tự nhiên, thực chúng, công lại của Machiavell, của Hobbes, đến Locke, rồi Rousseau...

Nếu không có một thể chế công giải quyết các tranh chấp giữa các con người với nhau giữa tư nhân với tư nhân, giữa nhà nước với tư nhân, giữa nhà nước với nhà nước. thì giải pháp duy nhất của những người tìm kiếm sự công bằng là sự trả thù. Một vòng xoáy bất tận của bạo lực, ban đầu thì bên này trả thù bên kia, rồi sau đó đến lượt bên kia trả thù bên này. Sự phán xử tranh chấp một cách hòa bình của thiết chế công, mà ngày nay được gọi là nhà nước mà toà án đại diện là giải pháp thay thế. Trong đó, các sự kiện được phân tích kỹ lưỡng, có bên nai ra (nguyên đơn dân sự và công tố buộc tội hình sự), có bên biện hộ (luật sư bào chữa), cùng các lý lẽ khác có thể bào chữa hay giải thích được xem xét và cân nhắc. Đó là một biện pháp công bằng được thành lập để giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp. Với nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp này tòa án có tác dụng thiết lập nên trật tự chọ một xã hội dân chủ, thông qua một quá trình, thủ tục tranh tụng giữa các bên có quyền và trách nhiệm đối kháng nhau trong đó quyền nhà nước bị hạn chế và quyền con người được bảo vệ. Đó là tinh thần của nhà nước pháp quyền (rule of law) mà chúng ta đang cố gắng xây dựng.

Nhiệm vụ của công tố được chia tách ra từ một hoạt động chung của nhà xua hoặc thay mặt nhà nước của các quan chức dưới quyền thành một công đoạn độc lập rất quan trọng đối với việc bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Sự truy tố một người có thể là khởi điểm của công lý hay là của sự lầm lạc. Bị truy tố kẻ phạm pháp mới bị đưa ra trước pháp luật để trừng trị. Nhưng cũng vì sự truy tố tuy chưa bị kết án người bị tình nghi phạm pháp đã phải chịu sự hoen ố danh dự và bị dư luận phê bình. Có khi còn bị tạm giam, tam giữ vì những biện pháp tạm thời của nhu cầu điều tra.

Giữa biết bao nhiêu nhiệm vụ lẫn chức năng biện minh cho việc cần phải có nhà nước không thể kể ra cho đủ, truy tố đã được J. Locke liệt kê ra chứng tỏ tầm quan trong không thể thiếu được của bất kể chính quyền nào. Ông viết: Mục đích của chính quyền dân sự chân chính là bảo toàn quyền sống quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của thần dân, là trụy tổ và trừng phạt những ai xâm phạm vào quyền của người khác (1). Có lẽ từ đây, Hiến pháp của Mỹ mới có cơ sở cho việc phải quy định 2/3 tổng số nhân quyền của họ trong 10 tu chính án đầu tiên là bảo vệ bị can(?!).

Thiết chế thực hiện chức năng buộc tội theo lịch sử lập hiến Việt Nam và sự đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho việc hình thành thiết chế này

Việc hình thành ra bộ phân công tố với chức năng thay mặt cho nhà nước truy tố người có tội, chỉ được đặt ra trong thời kỳ xây dựng nhà nước dân chủ của thời đại Hồ Chí Minh. Việc phân công trách nhiệm cho quan chức nhà nước thực hiện chức năng buộc tội này chỉ có từ thời Cách mạng Dân chủ tư sản và của nhà nước tư sản. Tội phạm hình sự được nhận thức chung trong xã hội dân chủ là hành vi chống lại trật tư của nhà nước, nên nhà nước phải đứng ra buộc tội. Hành vi buộc tội được gọi là công tố. Hoạt động này được hình thành muộn hơn và luôn gắn bó với hoạt động tư pháp/tòa án. Theo lịch sử lập hiến Việt Nam dân chủ, hình thành và phát triển của công tố có thể chia ra làm 03 giai đoạn ứng với 03 mô hình căn bản của công tố:

Giai đoạn thứ nhất từ 1946 cho đến 1959, công tố được tổ chức theo mô hình của nền dân chủ tư sản Pháp, chức danh công tố do thẩm phán thuộc thành phần của tòa án thực hiện. Ngay sau khi giành được độc lập, ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 32 bãi bỏ các ngach quan lại tư pháp cũ của thực dân và đồng thời ban hành ngay Sắc lệnh số 33c thành lập tòa án quân sự. Chức danh công tố nhân dạnh nhà nước truy tố người phạm tôi ra xét xử trước tòa án quân sự được giao cho ủy viên quân sự hoặc ủy viên của ban trinh sát: thẩm quyền truy tố đối với tất cả những người có hành vi xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ công hòa thuộc về tòa án quân sự.

Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh quy định tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán đặt ra chức danh thẩm phán buộc tôi được gọi là các chưởng lý và biện lý năm trong cơ cấu các tòa án đệ nhị cấp và tòa thương thẩm. Biện lý có quyền giám sát, chỉ đạo hoạt động điều tra tư pháp của công an, của kiểm soát viên kiểm lâm, hỏa xa, thương chính... là những cơ quan được giao thẩm quyền điều tra. Những cơ quan này chịu sự lãnh đạo của biện lý mà không chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính. Biện lý không chỉ có thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra mà còn có quyền trực tiếp tiến hành điều tra đối với các trường hợp thẩm phán phạm tội. Biện lý có quyền kháng nghị những quyết định mệnh lệnh của dư thấm về việc giam giữ bị can. Khi kết thúc điều tra, biện lý có quyền ra một trong 3 quyết định; truy tố bị can ra tòa bằng một bản cáo trạng: Tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án. Biện lý thực hiện việc luận tội trước tòa án thông qua việc duy trì quyền công tối có quyền kháng nghị bản án đã có hiệu lực của tòa án. Biện lý có thẩm quyền và nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực của tòa án; giám sát việc thị hành án: đệ đơn ân xá đạn phóng thích lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Công tố viên do Bộ Tư pháp quản lý nhưng Bộ Tư pháp không can thiệp vào hoạt động công tố viên theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 1946: "Trong khi xét xử. các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp" (Điều 69). Mặc dù về tổ chức được đặt trong tòa án và về hành chính là do Bộ Tư pháp quản lý nhưng các ủy viên công tố thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập, dưới sự lãnh đạo của chưởng lý.

Ở giai đoạn này không có viên công tố riêng, mà được tổ chức trong cơ cấu thành phần của tòa án. Mô hình tổ chức cơ quan công tố giống như mô hình công tố của Pháp. Các thành phần thẩm phán thực hiện chức năng buộc tội nằm trong cơ cấu của cơ quan tòa án. Chức năng chủ yếu của họ là chức năng công tố buộc tội và chức năng thứ hai chỉ đạo hoạt động điều tra và thực hiện điều tra đối với một số loại vụ án quan trọng. Bộ phận này có tính độc lập với tư cách là thiết chế thuộc quyền tư pháp, được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không có quyền can thiệp (2).

Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa I ngày 20/9/1955, Phạm Văn Đồng, một đồng chí thân cận của Hồ Chí Mình được bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ công hòa. Ở cuối giai đoạn này, năm 1959 chức năng truy tố buộc tôi được tách ra khỏi tòa án. Nghị định số 256-TTg ngày 01/7/1959 Thủ tướng Chính phủ quy định tổ chức nhiệm vụ và quyền hạn của ngành công tố và Nghị định số 321-TTg ngày 27/8/1959 Thủ tướng Chính phủ quy định thành lập các viên công tố phúc thẩm và viên công tố các cấp. Các cơ quan công tố được tổ chức thành một hệ thống và trực thuộc Chính phủ có nhiệm vụ như một bộ của Chính phủ. Ở các địa phương, viên công tố là những ca quan chuyên môn trực thuộc ủy ban hành chính cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của Viện công tố cấp trên và Viện công tố Trung ương, Viện công tố tiếp tục có hại chức năng như trước đây là điều tra và truy tố. Ở giai đoạn này, viên công tố đã được giao thêm một chức năng mới là chức năng giám sát. Đối tượng giám sát của Viện công tố gồm: Việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của co quan điều tra: việc chấp hành pháp luật của tòa án: việc thi hành pháp luật trong thi hành các bản án hình sự, dân sự; hoạt động của các cơ quan giam giữ, cải tạo. Một chức năng mới nữa Viện công tố được giao là khởi tố và tham gia tố tụng trong vụ án dân sự có liên quan đến lại ích của Nhà nước và của chung của nhân dân. Mô hình Viện công tố thuộc Chính phủ này chỉ tồn tại trên quy định pháp lý như một tư tưởng quá độ về tổ chức theo hướng tạo thành một hệ thống riêng, độc lập trong bộ máy Nhà nước Việt Nam³. Giai đoạn này rất ngắn, chỉ trong vòng không đến nửa năm 1959. Mô hình này gần tương tự như của các nước Anh, Mỹ hiện nay. Viện công tố thực hiện quyền công tố nằm trong thành phần của cơ cấu hành pháp.

Giai đoạn thứ hai từ Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp 1992, chức năng buộc tội được tổ chức theo mô hình của chế độ xã hội chủ nghĩa, do Viện Kiểm sát - một thiết chế độc lập với hành pháp thực hiện. Bắt đầu từ Hiến pháp 1959, qua Hiến pháp 1980, đến Hiến pháp 1992, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự tạo thành một hệ thống, thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật đối với các cơ quan nhà nước từ hàng dưới bộ cho đến của tất cả các tổ chức xã hội và công dân (được gọi là kiểm sát chung). Chức năng buộc tội được quy định trong chức năng kiểm sát chung. Trước mỗi phiên tòa hình sự Viện Kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội. Tất cả các Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên, các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Viện trưởng, các phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, Viện Kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực đều do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Trong mối quan hệ với Quốc hội Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

Từ Hiến pháp 1992, Viện Kiểm sát nhân dân địa phương báo cáo trước hội đồng nhân dân về tình hình thị hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu hội đồng nhân dân. Xét về vị trí và tổ chức, Viện Kiểm sát nhân dân hiện nay ở Việt Nam là một hệ thống cơ quan độc lập và thống nhất, do Hiến pháp quy định. Đặc trưng cơ bản này phản ánh yêu cầu về một thiết chế có các chức năng quan trong là giám sát việc thi hành pháp luật của các bộ, các ngành, các cơ quan chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và công dân bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (theo quy định trước năm, 2001); quyền công tố được hiểu và thực hiện trong thành phần của chức năng kiểm sát. Tính thống nhất của Viện Kiểm sát nhân dân được thể hiện ở chỗ, Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân địa phưong chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trường Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Viện trưởng, các phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực đều do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Giai đoạn thứ ba từ 2001 với việc sửa đổi Hiến pháp 1992 tới nay của Hiến pháp 2013, mô hình công tố buộc tội được tiếp tục tổ chức và hoạt động theo thiết chế Viện Kiểm sát của nhân dân, Hiến pháp 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, nhưng về cơ bản trong lĩnh vực chính trị chỉ dừng lại ở đối mới châm chắc, nên Hiến pháp 1992 vẫn được dựa trên nền tảng của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Như của Hiến pháp 1980, Viện Kiểm sát trong Hiến pháp 1992 được quy định cùng với hệ thống tòa án thành một chương riêng với tên gọi “Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có chung nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân bảo về tài sản XHCN, bảo đảm sự tôn trong tính mạng, tài sản, danh dự nhân phẩm của công dân. Ngoài ra. Hiến pháp còn quy định chức năng dành riêng cho Viện Kiểm sát là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan hành pháp, các cơ quan thuộc chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội đơn vị vũ trang, công dân (kiểm sát chung - một đặc trưng của mô hình chế độ chủ nghĩa xã hội).

Sau 15 năm tiến hành đổi mới bên cạnh những thành công bước đầu cho việc phát triển kinh tế, cũng bộc lộ một số những cản trở cho những bước phát triển tiếp theo, đất nước cần có những cải tổ tiếp theo về lĩnh vực chính trị - pháp luật Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua Nghị quyết sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992. Theo đó Điều 137 Hiến pháp 1992 được sửa thành: Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi này có mục đích làm cho hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người về tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ (5).

Chính sửa đổi này được Hiến pháp 2013 tái khẳng định thành chức năng của Viện Kiểm sát hiện nay. Khác với Hiến pháp 1980 và 1992, Hiến pháp 2013 không còn quy định chức năng kiểm sát chung, chỉ còn một chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (6). Xét cho đến cùng thì Viện Kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát điều tra với mục đích thực hiện tốt công tác buộc tội-công tố.

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tôi của Nhà nước đối với người phạm tội chống sự oan sai bắt đầu được nhấn mạnh từ đây.

Mục đích của việc thực hành quyền công tố được quy định rõ ở khoản 2 Điều 3 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân: “Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không để người nào bị khởi tố bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người quyền công dân trái luật".

Thực hành quyền công tố là việc Viện Kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy tố, buộc tội và cả gỡ tội đối với người phạm tội trong các giai đoạn khởi tố điều tra truy tố, xét xử.

Hoạt động thực hành quyền công tố theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 có quy định cụ thể hơn với trước đây, quyền công tố được phân định cụ thể theo từng giai đoạn của tố tụng hình sự từ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến các hoạt động tương trợ tư pháp với các tổ chức cơ quan nhà nước nước ngoài. Khoản 1 Điều 6 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 có quy định các công tác Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố dưới các hình thức: Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hành quyền công tố trong giai đoạn khỏi tố, điều tra vụ án hình sự thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm; thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự; điều tra một số loại tội phạm; thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

Hoàn thiện chế định công tố, buộc tội

Thuật ngữ tư pháp ở Việt Nam còn bao gồm cả các cơ quan công an, mà điều tra các vụ án là hoạt động cơ bản do các cục điều tra của Bộ Công an đảm nhiệm. Khi giao đồng chí Lê Giản phụ trách ngành công an, Hồ Chủ tịch căn dặn: "...Lưu ý chú phải thiết diện vô tư" và phải “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư" (7). Người giải thích luôn: Thiết diện là mặt sắt, là làm công an thì phải kiên quyết, cứng rắn: vô tư là không thiên vị, nghĩa là phải hết sức công bằng và công minh. Trong Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 02/1948, Hồ Chủ tịch đánh giá “tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền"(8). Người cho rằng tư pháp độc lập là yếu tố bảo đảm cho sự thành công của một một nhà nước dân chủ. Cho nên, về nhiệm vụ của tư pháp. Người nói: “Thực hiện chế đô pháp trị giữ vững và bảo vệ quyền lại của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta... ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta, phá hoại lại ích của nhân dân" (9).

Với nhiệm vụ thay mặt xã hội bênh vực quyền lợi chung, công tố không thể có thái độ chủ quan chỉ tìm cách buộc tội, mà đương nhiên loại bỏ mọi bằng chứng có lợi cho kẻ bị tình nghị. Nhiệm vụ của công tố là tham gia vào sự phát huy sự thật.

Nếu thiếu bằng cứ buộc tội, bổn phận của họ là đình chỉ nội vụ, bỏ sự truy tố. Mặc dù phải chịu lệnh trên và phải tuân thủ sự truy tố họ vẫn phải phát biểu ý kiến phủ nhân sự truy tố bằng lời nói theo lương tâm và danh dự mình. Trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi từ tất cả các phía công dân kể cả của người tình nghi là rất năng nề của công tố. Công tố viên có bốn phận hành động theo lương tâm công lý mới được bảo đảm. Thời của hòa bình, của nền kinh tế thị trường lại càng không thể “bắt nhầm còn hơn là bỏ sót", mà phải là “bỏ lọt còn hơn là bắt nhầm".

Đây là thể hiện cao nhất của nguyên tắc suy đoán vô tội. Vai trò của công tố viên là rất lớn trong việc thực hiện nguyên tắc này.

Các cơ quan tư pháp trong những năm qua đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm, đồng thời đáp ứng yêu câu không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là vẫn còn xảy ra một số vụ án oan, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tu pháp. Có thể kể ra đây một số vụ án oan, như: Vu Nhiên - Tỏ ở tỉnh Hậu Giang, yu Nguyễn Sỹ Lý ở tỉnh Nghệ An; vụ án Nguyễn Thanh Chấn, tỉnh Bắc Giang; vụ Hàn Đức Long (tỉnh Bắc Giang), xu Huỳnh Văn Nén (tỉnh Bình Thuận), Ku Vũ Ngọc Dương (thành phố Hà Nội)...(10).

Để thực hiện tốt chức năng buộc tội, tránh oan sai cho những người dân vô tội, có rất nhiều việc cần phải làm và cần phải hoàn thiện. Nhưng trước hết đứng về mặt nhận thức, phải gọi đúng cái tên của sự vật hiện tượng và người thực hiện những hành vi đó cũng phải được định dạnh một cách đúng đắn. Công tố tức buộc tội phải do nhà nước đảm nhiệm, một trong những nhiệm vụ chính yếu của nhà nước, trước khi nhà nước làm các công việc khác, hết sức tránh việc buộc tôi sai, phải do bộ phân chính yếu của nhà nước đảm nhiệm. Đó là cơ quan hành pháp, cơ quan chính yếu ở nghĩa hẹp nhất của nhà nước.

Ở Mỹ, công tố gắn liền với điều tra, do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là Tổng chưởng lý, quan chức đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi luật pháp của chính quyền và Cục Điều tra liên bang (FDI) của Bộ này là cơ quan điều tra chủ yếu của Nhà nước liên bang (11). Ở Việt Nam, với sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, hoạt động này tách ra hại hệ thống cơ quan đảm nhiệm: Bộ Công an điều tra (12); công tố - viên kiểm sát (13). Mặc dù hoạt động điều tra theo luật quy định phải đặt dưới sự giám sát, kiểm tra của công tố, nhưng vì nằm ở hại hệ thống cơ quan khác nhau nên vẫn có một sự cách bức nhất định. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra tình trang oan sai hiện nay.

So với tất cả các chức danh khác trong bộ máy nhà nước, công tố là chức danh rất nhiều thay đổi trong lịch sử lập hiến Việt Nam, nhung công tố vẫn chưa được định danh một cách rõ ràng trong pháp luật Việt Nam. Điều này thể hiện vấn đề định danh của Viện Kiểm sát Việt Nam cả về tên gọi lẫn vị trí pháp lý vẫn còn chưa rõ trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành. Mặc dù cùng được quy định với thiết chế tòa án trong Chương VIII, nhưng nếu tòa án được Hiến pháp quy định rõ là cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì Viện Kiểm sát lại không được Hiến pháp thừa nhận là tư pháp hay hành pháp.

Trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các nhà nước dân chủ tư sản, nếu hoạt động công tố được quy định rõ ràng là công tố viên, một thành phần trong bộ máy hành pháp (Bộ Tư pháp như ở Anh, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc) (14), thì ở ta, quyền công tố do kiểm sát viên thực hiện hợp thành một hệ thống riêng, được gọi là Viện Kiểm sát, ngang ngửa với hệ thống các cơ quan tòa án.

Trên tinh thần đổi mới cải cách xin được đề nghị hãy gọi đúng tên thật của công tố theo cách gọi của thời kỳ Hiến pháp 1946 của Hồ Chí Minh, và đưa chúng về đúng danh phân của bộ máy hành pháp theo thiết chế cần phải có của công tố thời kỳ gần cuối của giai đoạn thi hành Hiến pháp 1946. Sự định danh này rất phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Nghiên cứu được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 505.01-2023.07

1. J. Locke (1689), Khảo luận thít hại về chính quyền dân sự. Chương XI, $ 134.

2. Đào Trí Úc, Sửa đồi Hiến pháp và vấn đề sica đồi bế sung quy định về viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp theo kiểm sát online ngày 26/3/2012.

3. Đào Trí Úc, tlđd.

4. Điều 127 Hiến pháp 1980.

5. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Lịch sử Viện Kiểm sát nhân dân Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, 2010, tr. 640).

6. Điều 107 Hiến pháp 2013, thực ra quy định này đã được sửa từ năm 2001 khi sửa đổi một số điều Hiến pháp 1992.

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 382.

8. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Một số bài nói và viết của các lãnh tụ Đàng và Nhà nước ta về tư pháp, Thông tin Khoa học pháp lý, 1995, tr. 10.

9. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, tr.18.

10. ThS Nguyễn Nông, Án oan và giải pháp phòng, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/-an-oan-va-giai-phap-phong-ngua- 10, t3331.html, ngày 24/3/2025.

11. Khái quát hóa về chính quyền Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.

12. Thông tư số 11/2025/TT-BCA quy định về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều tra; phân công thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra hình sự trong công an nhân dân,

13. Nghị quyết số 951/NQ-UBTVQH13 của UBTVQH phê chuẩn quyết định của Viện trưởng Viện Kểm sát nhân dân Tối cao về bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

14. Chỉ dẫn về công tác công tế của Hiệp hội công tế viên quốc tế, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Hà Nội, 2000.

GS. TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG

Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Các tin khác