Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

26/01/2021 15:45 | 3 năm trước

(LSVN) - Hiện nay, hòa giải gần như là một thủ tục mang tính bắt buộc và trở thành phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu khi tiến hành giải quyết các vụ án dân sự nói chung. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hòa giải trong tố tụng dân sự, đồng thời đề xuất giải pháp nâng cao công tác hòa giải tại Tòa án hiện nay.

Ảnh minh họa,

Hòa giải trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng dân sự nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận, thương lượng với nhau về giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là các bên tranh chấp thông qua vai trò trung gian của Tòa án. Hòa giải tại Tòa án có vài trò, ý nghĩa quan trọng, được xem là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất. Kết quả hòa giải thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; kết quả hòa giải thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của các luật tố tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.

1. Đặc điểm của hòa giải trong tố tụng dân sự

1.1. Hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành

Trong quá trình hòa giải các vụ án dân sự nói chung, Tòa án được pháp luật quy định giữ vai trò trung gian tổ chức hòa giải giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung không chỉ là một nguyên tắc, thủ tục tố tục đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự mà còn đảm bảo tính pháp lý của hòa giải.

So với hòa giải do tổ hòa giải ở cơ sở, hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành... thì hòa giải do Tòa án tiến hành có những sự khác biệt như sau:

- Về căn cứ pháp lý: Hòa giải do Tòa án tiến hành được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong khi đó, hòa giải do tổ hòa giải ở cơ sở tiến hành được điều chỉnh bởi Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; hòa giải do hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành thì được điều chỉnh bởi Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Về phạm vi hòa giải: Tòa án tiến hành hòa giải tất cả các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các điều 26, 28, 30, 32 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Phạm vi hòa giải của tổ hòa giải ở cơ sở được quy định cụ thể tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và nghị định quy định chi tiết. Trong khi đó, hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ hòa giải những tranh chấp đất đai (chủ yếu là tranh chấp về quyền sử dụng đất) mà các bên không tự hòa giải được.

- Về bản chất: Hoạt động hòa giải do Tòa án tiến hành là thủ tục tố tụng mang tính chất bắt buộc trong giải quyết các vụ án dân sự nói chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206, Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trong khi đó, hoạt động hòa giải ở cơ sở là phương thức tổ chức giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trên cơ sở khuyến khích, thuyết phục các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau nhằm xóa bỏ mâu thuẫn, bất đồng, từ đó đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết trong nội bộ nhân dân, tương thân tương ái, giữ gìn đạo đức, tình làng nghĩa xóm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Còn đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai do hội đồng hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành là một thủ tục có tính chất pháp lý bắt buộc, đây có thể được coi như là một giai đoạn tiền tố tụng để giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.

- Về chủ thể tiến hành hòa giải: Hòa giải tại Tòa án do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc hội đồng xét xử sơ thẩm (tại Tòa án nhân dân cấp huyện) và phúc thẩm (tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh) tiến hành. Còn hoạt động hòa giải ở cơ sở được thực hiện bởi các hòa giải viên thuộc các tổ hòa giải. Đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai do hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai thực hiện.

- Về hậu quả pháp lý: Đối với hoạt động hòa giải do Tòa án tiến hành thì nếu hòa giải thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành hoặc được ghi rõ vào biên bản phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Sau đó, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ra quyết định công nhận. Quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án có hiệu lực sau khi ban hành, không bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và có giá trị pháp lý bắt buộc các bên đương sự, cơ quan hữu quan phải chấp hành và thi hành. Nếu hòa giải không thành thì đưa vụ án ra xét xử hoặc tiếp tục xét xử vụ án. Đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở: Nếu hòa giải thành, các bên có thể thỏa thuận lập văn bản hòa giải thành; nếu hòa giải không thành thì các bên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Còn đối với hoạt động hòa giải trong giải quyết các tranh chấp đất đai: Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã; nếu hòa giải thành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận; nếu hòa giải không thành thì chuyển hồ sơ cho Tòa án tiếp tục giải quyết theo thẩm quyền.

1.2. Kết quả hòa giải thành là sự thỏa thuận của các đương sự

Việc thỏa thuận của đương sự chỉ đạt được trên cơ sở thương lượng một cách tự nguyện, trung thực, hợp tác và có thiện chí; phù hợp lợi ích của các bên nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Sự thỏa thuận của đương sự là đặc trưng cơ bản của hòa giải, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết các tranh chấp, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử.

1.3. Hòa giải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định

Hòa giải các vụ án dân sự nói chung phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành. Việc quy định trình tự, thủ tục hòa giải các vụ án dân sự nói chung đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động hòa giải của Tòa án, đảm bảo sự bình đẳng của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án, các đương sự tham gia hòa giải phải tuân theo quy định đó.

1.4. Hòa giải là một nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án

Hoạt động giải quyết vụ án dân sự nói chung của Tòa án phải tuân thủ theo nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định.

2. Một số bất cập, vướng mắc về pháp luật hòa giải trong tố tụng dân sự hiện nay

Thứ nhất, về thời điểm tiến hành phiên họp hòa giải

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay không có quy định nào về thời điểm mở phiên họp hòa giải. Khoản 1 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Do đó, hiện nay, có quan điểm cho rằng, thời điểm tiến hành hòa giải là khi nào Tòa án thu thập đầy đủ chứng cứ và cần thiết để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu kết quả hòa giải không thành. Điều này sẽ hạn chế số lần đương sự phải đến Tòa án. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, việc hòa giải là do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xem xét quyết định, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể. Theo đó, công tác hòa giải cần phải được chuẩn bị kỹ càng, cần phải có sự kiên trì và chọn thời điểm phù hợp. Kinh nghiệm và thực tiễn công tác hòa giải tại Tòa án của các thẩm phán cho thấy, việc chọn thời điểm để tiến hành mở phiên họp hòa giải có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định. Chẳng hạn, một vụ án tranh chấp về ly hôn, nếu sau khi thụ lý, Tòa án tiến hành mời các đương sự hòa giải ngay thì có thể hòa giải thành theo hướng các đương sự thuận tình ly hôn hoặc không thành do bị đơn không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, mâu thuẫn của vợ chồng là đương sự trong vụ án không lớn, có thể là một chút giận hờn hoặc nhằm ly hôn cho bên kia biết “sợ” mà sửa đổi tính tình thì thẩm phán không nên vội mời hòa giải ngay mà cần tìm hiểu rõ nguyên nhân mâu thuẫn, trao đổi riêng với từng được sự, tìm hiểu tâm tư, động viên phân tích để họ đoàn tụ, như vậy, nhiều khả năng nguyên đơn sẽ rút lại đơn khởi kiện. Hay một vụ án tranh chấp đất đai, do các đương sự đã có nhiều mâu thuẫn, qua hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì họ đã không muốn thương lượng giải quyết.

Do đó, nếu Tòa án vừa thụ lý đã mời hòa giải thì kết quả hòa giải thành là không cao. Tuy nhiên, nếu thẩm phán tìm hiểu rõ nguyên nhân mâu thuẫn, thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết, đồng thời đưa ra nhiều phương án để đương sự suy nghĩ và lựa chọn thì kết quả hòa giải thành sẽ cao hơn.

Thứ hai, về thời điểm bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập

Theo quy định tại khoản 3 Điều 200  và khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có thể hiểu là Tòa án chỉ được thụ lý và xem xét giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước khi Tòa án mở phiên họp hòa giải. Tuy nhiên, quy định trên không được rõ ràng ở chỗ, trong một vụ án dân sự nói chung thì Tòa án thường mở nhiều phiên họp hòa giải, do đó, nếu tại phiên họp hòa giải lần thứ hai mà bị đơn mới nộp đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập thì Tòa án có được thụ lý hay không. Có quan điểm cho rằng, Tòa án không được thụ lý vì không đảm bảo quy định tại các điều khoản nêu trên. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, Tòa án vẫn phải xem xét thụ lý yêu cầu của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bởi lẽ, yêu cầu của họ là gắn với yêu cầu của đương sự khác trong vụ án, nên nếu không thụ lý trong cùng vụ án sẽ không thể giải quyết triệt để vụ án và gây tốn kém, kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp giữa các đương sự nếu thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong vụ án khác nữa.

Thứ ba, tại phiên họp hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự

Khoản 5 Điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn có trường hợp vụ án chỉ có đương sự là nguyên đơn và bị đơn, tại phiên họp hòa giải, bị đơn có đơn xin vắng mặt nhưng đã gửi văn bản cho Tòa án có ý kiến đồng ý toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và chấp nhận chịu toàn bộ án phí thì Tòa án có được quyền lập biên bản hòa giải thành và sau đó là ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự hay không thì hiện nay còn có các quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu bị đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và tiến hành đưa vụ án ra xét xử. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án có quyền lập biên bản hòa giải thành, sau đó, gửi biên bản hòa giải thành cho bị đơn, nếu hết thời gian 07 ngày làm việc kể từ ngày bị đơn nhận được bản sao biên bản  hòa giải thành mà bị đơn không có ý kiến bằng văn bản về việc thay đổi nội dung thỏa thuận thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

3. Giải pháp nâng cao chất lượng hòa giải trong tố tụng dân sự

Một là, tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân

Để công tác hòa giải tại Tòa án đi vào thực chất và đạt hiệu quả cao hơn thì cần phải tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04/2017/CT-CA ngày 03/10/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân. Trong đó, thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký Tòa án cần nhận thức rõ về vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hòa giải khi giải quyết vụ án dân sự để chủ động, tích cực, kiên trì hòa giải. Coi công tác hòa giải là nhiệm vụ hàng đầu cần ưu tiên thực hiện trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nói chung. Khi tiến hành hòa giải, phải đảm bảo trình tự, thủ tục hòa giải phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Không được lợi dụng hòa giải để tiêu cực, trục lợi trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận và quyền tự định đoạt của các đương sự; không được lừa dối, cưỡng ép, đe dọa, dùng vũ lực bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của họ. Bên cạnh đó, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải phấn đấu đạt chỉ tiêu hòa giải thành được nêu trong Chỉ thị. Cụ thể là phấn đấu số lượng vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được hòa giải thành so với số lượng vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án đã giải quyết trong một năm đạt tỷ lệ từ 60% trở lên. Phấn đấu 100% quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; không có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khó thi hành hoặc không thi hành án được.

Hai là, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về công tác hòa giải

Hòa giải được xem là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất. Do đó, việc đánh giá đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động hòa giải sẽ nâng cao được chất lượng và tính hiệu quả của hoạt động hòa giải của Tòa án. Để làm được điều này, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về công tác hòa giải đối với người trực tiếp làm nhiệm vụ hòa giải và đối với đương sự. Đối với người làm nhiệm vụ hòa giải phải coi hòa giải là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong quá trình giải quyết vụ án. Hòa giải thành nhiều vụ án sẽ góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án mà Tòa án thụ lý giải quyết, giảm được áp lực công việc, nâng uy tín của Tòa án, tạo được lòng tin vào công lý của nhân dân đối với Ngành Tòa án. Đối với đương sự, hòa giải thành sẽ giảm được thời gian đi lại, công sức, tiền của đương sự. Hòa giải thành sẽ sớm giải quyết được các tranh chấp của các bên. Từ đó, thắt chặt và tăng cường tình đoàn kết của nhân dân với nhau; góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về công tác hòa giải đạt hiệu quả thì cần nhiều biện pháp, cách thức tuyên truyền khác nhau, phù hợp với từng đối tượng và từng vùng miền. Đối với thẩm phán cần kiên trì hòa giải, những vấn đề nào đương sự chưa hiểu hoặc chưa thống nhất thì cần giải thích rõ ràng hơn về các quy định của pháp luật có liên quan, phân tích hậu quả pháp lý của hòa giải thành và hòa giải không thành phải đưa vụ án ra xét xử để từ đó đương sự tự nguyện thương lượng hòa giải việc giải quyết vụ án. Kết quả hòa giải thành giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; kết quả hòa giải thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.

Ba là, tăng cường công tác lãnh đạo, kiểm tra đối với công tác hòa giải của thẩm phán

Hiện nay, mặc dù công tác hòa giải được chú trọng và quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn thẩm phán là những người trực tiếp làm nhiệm vụ giải quyết, xét xử án chưa thật sự coi trọng công tác hòa giải. Từ đó, chất lượng hòa giải các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động không cao, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trung gian của Tòa án trong giải quyết tranh chấp. Do đó, lãnh đạo Tòa án cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác hòa giải đối với các thẩm phán. Có biện pháp kiểm tra tiến độ, quá trình hòa giải vụ án. Từ đó, kịp thời nhắc nhở các thẩm phán cần phải tích cực hơn trong việc tổ chức hòa giải vừa đảm bảo quy định pháp luật, vừa đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Công tác kiểm tra, giám sát thẩm phán giải quyết án có thể xây dựng bằng một chuyên đề riêng. Hình thức kiểm tra, giám sát có thể là lãnh đạo Tòa án kiểm tra thẩm phán, các thẩm phán kiểm tra, giám sát chéo với nhau. Hết thời gian kiểm tra, giám sát thì cần họp cơ quan để trao đổi, thảo luận và tìm phương hướng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của từng hồ sơ vụ án. Qua đó, cùng trao đổi để tìm hướng giải quyết vụ án sao cho vừa đúng quy định pháp luật, vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả đương sự trong vụ án. Bên cạnh đó, việc lãnh đạo, kiểm tra, giám sát công tác hòa giải của thẩm phán cũng cần được thực hiện một cách thường xuyên.

Bốn là, tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho thẩm phán

Thẩm phán là người được phân công giải quyết vụ án, đồng thời là người trực tiếp chủ trì việc hòa giải. Do đó, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng hòa giải cho thẩm phán là yêu cầu cấp thiết trước mắt và lâu dài. Bởi việc hòa giải có thành công hay không thì ngoài việc nắm vững kiến thức pháp luật, thu thập đầy đủ chứng cứ thì thẩm phán còn phải được trang bị kỹ năng hòa giải tốt. Trong điều kiện hiện nay, các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại… ngày càng đa dạng, đan xen phức tạp. Do đó, đòi hỏi thẩm phán phải được bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng hòa giải. Tùy thuộc và tình hình cụ thể của đơn vị, từng thời điểm khác nhau mà lựa chọn các hình thức bồi dưỡng cho phù hợp, có thể là cử thẩm phán tập huấn theo hình thức trực tuyến hoặc theo đợt tập huấn ngắn hạn khi được Tòa án cấp trên tổ chức.

Năm là, tiếp tục duy trì việc phát động phong trào thi đua khen thưởng về công tác hòa giải cho thẩm phán, thư ký và thẩm tra viên

Thực tế thời gian qua cho thấy, thông qua việc phát động các phong trào thi đua khen thưởng về công tác hòa giải thì kết quả hòa giải thành các vụ án chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Tinh thần trách nhiệm của thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên cũng được nâng cao hơn. Thông qua việc tổng kết phong trào thi đua khen thưởng, nhiều cá nhân là thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên đã được nêu gương, tạo động lực cho các thẩm phán, thư ký, thẩm tra viên khác trong đơn vị tiếp tục phấn đấu nỗ lực nhiều hơn nữa thực hiện nhiệm vụ của mình.

Sáu là, đầu tư thêm cơ sở vật chất tạo điều kiện cho thẩm phán làm tốt công tác hòa giải

Bên cạnh các giải pháp nêu trên thì việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác hòa giải của các thẩm phán có nhiều ý nghĩa, góp phần có hiệu quả cho công tác hòa giải. Đặc thù của công tác hòa giải là rất cần sự thiện chí của các bên tranh chấp. Do đó, việc bố trí phòng hòa giải vừa phải, đủ không gian để các bên có thể ngồi cạnh nhau, sẽ có những hiệu quả rất tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay, rất ít Tòa án trang bị được các phòng hòa giải như vậy. Phần lớn phải tận dụng phòng làm việc riêng của thẩm phán để hòa giải hoặc sử dụng phòng xét xử để hòa giải nên hiệu quả công tác hòa giải chưa đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, việc có nhiều thẩm phán phải tiến hành hòa giải cùng lúc nên không đủ phòng để hòa giải cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến công tác hòa giải.

DƯƠNG TẤN THANH

Thẩm phán TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

(Tạp chí Dân chủ & Pháp luật)

 

Giải quyết vụ án tranh chấp ly hôn khi người bị kiện cố tình giấu địa chỉ