/ Trao đổi - Ý kiến
/ Hoàn thiện pháp luật về tội 'Tham ô tài sản' trong Bộ luật Hình sự 2015

Hoàn thiện pháp luật về tội 'Tham ô tài sản' trong Bộ luật Hình sự 2015

23/04/2023 06:35 |

(LSVN) - Tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện đang diễn biến rất phức tạp, đây là một trong bốn nguy cơ lớn đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Tội "Tham ô tài sản" là một tội danh thuộc nhóm các tội phạm tham nhũng, đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp… đã lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp… mà mình có trách nhiệm quản lý.

Ảnh minh họa.

1. Cấu thành tội "Tham ô tài sản"

1.1. Khách thể

Khách thể của tội "Tham ô tài sản" là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp này bị suy yếu, mất uy tín; đồng thời tội "Tham ô tài sản" còn xâm phạm quyền sở hữu tài sản của các cơ quan tổ chức đã nêu. Đối tượng tác động của tội phạm chính là tài sản mà người có chức vụ, quyền hạn đang trực tiếp quản lý và thông qua việc tác động đến tài sản này người phạm tội mới có thể xâm phạm đến khách thể của tội phạm. Tài sản này là tài sản của nhà nước giao cho các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước  sở hữu và đang đặt dưới  sự quản lý của cơ quan, tổ chức trong Nhà nước hoặc là tài sản của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước đang giao cho người phạm tội quản lý.

1.2. Mặt khách quan

Tội “Tham ô tài sản” có cấu thành tội phạm vật chất nên mặt khách quan của tội “Tham ô tài sản” gồm hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm. Hành vi khách quan của tội “Tham ô tài sản” là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà người phạm tội quản lý. Hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan  trực  tiếp đến  chức vụ, quyền  hạn  của người  phạm  tội,  nếu người  phạm  tội không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó hoặc không thể thực hiện được hành vi chiếm đoạt  tài  sản.  Chức vụ, quyền hạn là điều kiện phạm tội để người phạm tội lợi dụng và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng. Hành vi khách quan của Tội “Tham ô tài sản” theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 đã được mở rộng. Theo đó, không chỉ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực công mà bao gồm cả hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

Một dấu hiệu nữa thuộc mặt khách quan của tội “Tham ô tài sản” là dấu hiệu hậu quả của tội phạm, theo quy định tại Điều 353, BLHS năm 2015, người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý với giá trị từ 2 triệu đồng trở lên thì mới bị truy cứu TNHS còn nếu chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp sau mới bị truy cứu TNHS: đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội phạm quy định tại Mục 1 chương 1 này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

1.3. Chủ thể

Tội “Tham ô tài sản” được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản, từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Người có chức vụ, quyền hạn trong tội “Tham ô tài sản” có đặc điểm là họ có thể là người thực hiện một trong các chức năng đại diện quyền lực Nhà nước, tổ chức để điều hành quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh theo vị trí, công việc được giao. Là người giữ chức vụ, quyền hạn thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp trong hoặc ngoài Nhà nước. Người có trách nhiệm quản lý tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức như: kế toán, thủ quỹ, thủ kho, bảo vệ … Ngoài ra, những người gián tiếp quản lý tài sản, có trách nhiệm trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản như người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc công ty, chủ tịch Hội đồng quản trị các doanh nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.

1.4. Mặt chủ quan

Tội “Tham ô tài sản” cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với những tội có tính chất chiếm đoạt khác, chủ thể thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Không có trường hợp tham ô tài sản nào được thực hiện do vô ý hoặc cố ý gián tiếp, vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sảnmà mình có trách nhiệm quản lý. Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội “Tham ô tài sản”; nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được (chưa chiếm đoạt được tài sản) là nằm ngoài ý muốn chủ quan của tội phạm, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

2. Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện.

2.1. Dấu hiệu gây thiệt hại về tài sản.

Đối với dấu hiệu này, Điều 353, BLHS quy định đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) quy định tại các khoản 2,3,4 với giá trị tài sản bị thiệt hại thấp nhất là 1.000.000.000 đồng.

Tác giả cho rằng cần bổ sung dấu hiệu này vào khoản 1, Điều 353 mới phù hợp. Bởi lẽ, dấu hiệu gây thiệt hại về tài sản là độc lập với giá trị tài sản chiếm đoạt, trong khi khoản 1 không quy định dấu hiệu này mà chỉ quy định giá trị tài sản chiếm đoạt và dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật hoặc đã bị kết án. Điều này có thể dẫn đến sự “không công bằng” giữa các trường hợp. Ví dụ: A. có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý trị giá 1.000.000 đồng, không gây thiệt hại về tài sản nhưng trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này thì A phạm tội Tham ô theo khoản 1, Điều 353. B. có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình quản lý trị giá 2.000.000 đồng, không gây thiệt hại về tài sản thì B. cũng phạm tội "Tham ô" theo khoản 1, Điều 353. C. cũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình quản lý trị giá 1.500.000 đồng, nhưng gây thiệt hại về tài sản 900.000.000 đồng thì C. không phạm tội "Tham ô".

Theo tác giả, thực tế cho thấy hành vi của C. còn thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi của A. và B. nhưng A., B. bị truy cứu TNHS, còn C. thì không. Do đó, cần thiết phải bổ sung dấu hiệu gây thiệt hại về tài sản vào trở thành điểm c. khoản 1. Điều 353. BLHS: “Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”.

2.2. Các tình tiết định khung.

Điều 353, BLHS quy định 13 tình tiết định khung tăng nặng, trong đó có những tình tiết chưa đầy đủ, chưa rõ ràng và có tình tiết xảy ra trên thực tế chưa được quy định. Cụ thể:

Thứ nhất, tình tiết “dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm”: Theo Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao đê thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm và “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm. Quy định này đã góp phần khắc phục lỗ hổng của pháp luật về khái niệm, tuy nhiên việc đưa ra các khái niệm vẫn còn mang tính chung chung, vẫn còn dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Như thế nào là “tinh vi”, việc sử dụng thủ đoạn dối trá đến mức độ nào thì được coi là tinh vi; thế nào là “công nghệ cao” (mặc dù đã có những quy định liên quan của Luật Công nghệ cao nhưng vẫn rất khó xác định trên thực tế); thế nào là “gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm”, liệu “gây khó khăn đã bao hàm hành vi tiêu hủy chứng cứ, che giấu tội phạm…hay chưa? Do đó, cần có văn bản hướng dẫn theo hướng xác định rõ các tiêu chí, mức độ theo hướng tương tự “có tính chất chuyên nghiệp là cố ý phạm tội từ 05 lần trở lên và lấy đó là nghề sinh sống, lấy kết quả phạm tội làm nguồn sống chính”.

Thứ hai, tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Tình tiết này cũng đã được hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2020 gồm 03 trường hợp. Tuy nhiên, cũng giống tính tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm, việc hướng dẫn này vẫn chưa giải quyết được bất cập và chưa thật sự tạo thuận lợi cho chủ thể áp dụng pháp luật. Ví dụ hiểu thế nào là “đông người”, liệu “hai người” đã là “đông người” hay chưa bởi vì theo quy định “hai” đã là “số nhiều”? Căn cứ vào đâu để xác định các thế lực thù địch có lợi dụng, lôi kéo, kích động, xuyên tạc hay không? Nhân dân biểu hiện như thế nào, đến mức nào thì được coi là hoang mang, lo sợ, phẫn nộ… Do đó, cũng cần có văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn.

Thứ ba, tình tiết “chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo, tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng…”. Theo đó, tình tiết này liệt kê rất cụ thể các trường hợp, trong đó có trường hợp chiếm đoạt tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Quy định như vậy là chưa bảo đảm sự công bằng giữa các đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác như các đối tượng cần được bảo vệ khỏi sự xâm hại của loại hành vi phạm tội này như hưu trí, người bị tai nạn lao động, các chế độ ưu đãi đối với thân nhân của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm: con đẻ bị dị dạng, dị tật do hậu quả của chất độc hóa học không tự lực được trong sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt được hưởng trợ cấp hàng tháng…; cha đẻ, mẹ đẻ; vợ hoặc chồng; con từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng… bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên được Nhà nước mua bảo hiểm y tế. Do đó, cần sửa đổi quy định này thành “tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người được hưởng chính sách xã hội”.

2.3. Về việc xử lý khi người bị kết án tử hình chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô

Theo quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 40, BLHS năm 2015 “Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội “Tham ô tài sản”, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm, lập công lớn”. Quy định này thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội tham ô hoặc nhận hối lộ không chỉ nhằm khuyến khích những người này trả lại tài sản đã chiếm đoạt được bằng hình thức “tham ô” hoặc “nhận hối lộ” mà còn hướng đến mục đích của công cuộc đấu tranh chống tham nhũng là thu hồi tài sản. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP thì “chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô” là trường hợp người phạm tội đã tự mình nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ sau khi phạm tội. Cũng được coi là chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ đối với trường hợp người phạm tội sau khi phạm tội đã tác động để cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại hoặc không phản đối việc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em, những người thân khác nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản mà mình tham ô, nhận hối lộ. Tuy nhiêntrên thực tế vẫn còn những vấn đề chưa rõ, còn nhiều cách hiểu khác nhau. Cụ thể, hiểu chỉ là tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt được qua việc thực hiện hành vi tham ô tài sản? Còn thiệt hại về mặt tài sản do hành vi phạm tội tham ô gây ra không thuộc nội dung quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 40, BLHS năm 2015? Vì vậy, cần phải được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn và giải thích rõ hơn nhằm tạo ra sự nhận thức thống nhất của những người tiến hành tố tụng và đó chính là tiền đề để áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn.

2.4. Về hình phạt

Theo đó, khoản 5, Điều 353 quy định hai loại hình phạt bổ sung, trong đó hình phạt “Cấm đảm nhiệm chức vụ” là bắt buộc và hình phạt “Tiền” là có thể và giá trị phạt tiền là từ 30.000.000 đồng – 100.000.000 đồng. Xét riêng đối với hình phạt tiền, tất cả các tội phạm tham nhũng đều có chung cách quy định “có thể phạt tiền từ …. đến 100.000.000 đồng”. Theo tác giả, cần quy định hình phạt tiền là bắt buộc phải áp dụng chứ không nên quy định có thể áp dụng như hiện nay. Việc cần thiết phải sửa đổi quy định này theo tác giả là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 31, BLHS năm 2015, tức là hình phạt bổ sung bắt buộc này sẽ hỗ trợ một cách có hiệu quả cho hình phạt chính đạt được mục đích tối đa. Đồng thời, đối với mức phạt tiền tối đa 100.000.000 đồng là cơ bản thấp so với các tình tiết định khung của Điều luật và giá trị tài sản tham ô thực tế hiện nay. Do đó, cũng cần tăng mức tối đa của hình phạt tiền.

VĂN LINH

Tòa án Quân sự khu vực Hải quân

Một số hạn chế, bất cập về tội 'Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác' 

 

Nguyễn Hoàng Lâm