/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu

16/03/2024 07:45 |

(LSVN) - Khi giao kết hợp đồng, điều quan trọng mà các bên mong muốn là hợp đồng luôn có hiệu lực và có thể thực thi nhưng vì nhiều lý do mà đôi khi hợp đồng có thể bị vô hiệu. Nhìn một cách tổng thể, quy định pháp luật cơ bản đã giải quyết được những vướng mắc về hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Toà án vẫn phát sinh nhiều bất cập do chưa thống nhất được cách hiểu các quy định pháp luật.

Ảnh minh họa.

I. Hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng là phương thức phổ biến để các chủ thể xác lập quan hệ và theo đó thực hiện việc trao đổi lợi ích vật chất, dịch vụ đối với nhau. Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” và quy định tại Điều 116 BLDS thì “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự nên khi có những quy định riêng về hợp đồng thì áp dụng những quy định riêng, khi không có những quy định riêng thì phải áp dụng những quy định chung về giao dịch dân sự.

Theo Điều 122 BLDS 2015 thì “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác” và khoản 1 Điều 407 BLDS: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”. Như vậy, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng đã tồn tại nhưng không đáp ứng một hay nhiều điều kiện có hiệu lực mà pháp luật về hợp đồng đã yêu cầu hoặc trong trường hợp pháp luật có quy định khác. 

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân chủ quan chính là hành vi của chủ thể khi xác lập hợp đồng như vi phạm nguyên tắc xác lập hợp đồng; vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; lừa dối, đe doạ, cưỡng ép đối tác; xác lập hợp đồng một cách giả tạo. Các nguyên nhân khách quan là những sự kiện xảy ra ngoài ý chí, không phải là mong muốn chủ quan của chủ thể như một trong hai bên bị nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng; chủ thể xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; do hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được; do hợp đồng chính bị vô hiệu. Bên cạnh những trường hợp vô hiệu theo quy định chung của BLDS đã được quy định từ Điều 122 đến Điều 129 BLDS thì các luật chuyên ngành điều chỉnh hợp đồng đặc thù trong từng lĩnh vực còn có các quy định riêng về những trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Hợp đồng thuộc những trường hợp được luật chuyên ngành quy định thì sẽ áp dụng luật đó để giải quyết việc tuyên hợp đồng vô hiệu. Chẳng hạn như hợp đồng kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 và tại khoản 1 Điều 25 Luật này quy định về Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong trường hợp: “Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm".

Theo quy định từ Điều 122 đến Điều 129 BLDS thì hợp đồng vô hiệu do một trong các trường hợp sau:

Không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của BLDS thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

Giả tạo.

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

Bị nhầm lẫn.

Bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.

Người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Không tuân thủ quy định về hình thức.

Thực tế có nhiều tranh chấp liên quan đến việc giao kết hợp đồng buộc xác lập thành văn bản (ngoại trừ trường hợp hợp đồng được giao kết bằng lời nói, hợp đồng xác lập bằng văn bản buộc phải công chứng, chứng thực và các trường hợp ngoại lệ theo quy định của pháp luật) mà văn bản mới chỉ có chữ ký của một bên thì có được coi là hợp đồng không để rồi xem xét đến việc áp dụng quy định về hợp đồng vô hiệu hay phải áp dụng các quy định khác về nghĩa vụ dân sự. Nội dung này vẫn đang có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất, nếu các giao dịch buộc phải lập thành văn bản nhưng mới chỉ có chữ ký một bên thì thuộc trường hợp chưa có hợp đồng do thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Do đó việc giải quyết tranh chấp đối với trường hợp này không áp dụng các quy định về hợp đồng vô hiệu mà phải áp dụng các quy định khác về nghĩa vụ dân sự.

Quan điểm thứ hai, chữ ký chỉ là một cách thức thể hiện sự ưng thuận về nội dung có trong hợp đồng nhưng đó không là cách duy nhất thể hiện sự ưng thuận của một bên. Một khi có đủ cơ sở để khẳng định một bên đã ưng thuận cho hợp đồng thì chữ ký không thực sự quan trọng (khi bên chưa có chữ ký đang nắm giữ bản hợp đồng này) và lúc này tuy chưa có “chữ ký” của bên đang nắm giữ hợp đồng bên kia đã ký nhưng đã có “giao kết” hợp đồng (Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm có sự thoả thuận). Vì vậy, cần chấp nhận hợp đồng dù hợp đồng vẫn đang thiếu chữ ký.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì quan điểm này phù hợp với xu hướng lập pháp hiện nay là đề cao sự ưng thuận của các bên trong giao kết hợp đồng.

II. Quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ khi một trong hai hợp đồng vô hiệu

Để làm rõ được nội dung này thì cần xác định được hợp đồng nào là hợp đồng chính, hợp đồng nào là hợp đồng phụ. Theo quy định tại BLDS, “hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ” và “hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính” (Điều 402 BLDS). Với quy định này, hợp đồng chính và hợp đồng phụ phải là hai hợp đồng. Do đó, một quan hệ mà không có hai hợp đồng thì sẽ không là quan hệ hợp đồng chính và hợp đồng phụ đồng thời hai hợp đồng phải liên quan đến nhau theo nghĩa hiệu lực của “hợp đồng phụ” bị “phụ thuộc vào hợp đồng chính” (phụ phục vụ cho chính).

Trong thực tế hợp đồng chính và hợp đồng phụ có thể được hình thành giữa cùng hai chủ thể; các bên trong hợp đồng chính cũng là các bên trong hợp đồng phụ. Ví dụ, Hợp đồng thuê nhà đơn giản kèm với hợp đồng đặt cọc tiền để đảm bảo bên thuê sẽ thuê hết khoảng thời gian thỏa thuận. Ở đây có hai hợp đồng: hợp đồng thuê nhà và hợp đồng đặt cọc để phục vụ cho hợp đồng thuê nhà; quan hệ giữa hai hợp đồng này là quan hệ chính/phụ. Bên cạnh đó, hợp đồng chính và hợp đồng phụ có thể tồn tại giữa các chủ thể khác nhau. Ví dụ, A vay tiền của B để mua nhà của C. Ở đây tồn tại một hợp đồng vay giữa A và B, một hợp đồng mua bán giữa A và C; hợp đồng vay là hợp đồng phụ của hợp đồng mua bán (hợp đồng chính).

Hợp đồng chính vô hiệu

Hợp đồng chính có thể vô hiệu và trong trường hợp này sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ. Tuy nhiên việc tuyên bố hợp đồng chính vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng bảo đảm “thực hiện nghĩa vụ” (khoản 2 Điều 407 BLDS).

Ví dụ: Trong mối quan hệ hợp đồng vay là hợp đồng chính và hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng phụ thì khi hợp đồng vay vô hiệu sẽ không có việc “thực hiện hợp đồng” nhưng bên vay vẫn phải “thực hiện nghĩa vụ” hoàn trả khoản tiền đã nhận. Trong trường hợp này, hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng phụ nhằm “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay” nên việc hợp đồng vay bị vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng bảo lãnh (vì vẫn tồn tại nghĩa vụ hoàn trả). Nội dung này cũng tương tự cho trường hợp hợp đồng mua bán là hợp đồng chính, hợp đồng đặt cọc là hợp đồng phụ.

Hợp đồng phụ vô hiệu

Vì là hợp đồng phụ nên khi hợp đồng phụ bị vô hiệu thì hợp đồng chính không bị ảnh hưởng. Nhưng khoản 3 Điều 407 BLDS quy định sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính với ngoại lệ “trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính”. Như vậy, hợp đồng chính có thể bị ảnh hưởng bởi sự vô hiệu của hợp đồng phụ và quy định tại khoản 3 Điều 407 BLDS cũng có thể suy luận ngược lại là, nếu các bên thoả thuận hợp đồng chính và hợp đồng phụ là một khối không thể tách rời thì sự vô hiệu của hợp đồng phụ làm cho hợp đồng chính “chấm dứt” (Bộ luật không nói rõ là làm cho hợp đồng chính “vô hiệu”).

Tuy nhiên, Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình (“Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP”) thì không theo hướng sự vô hiệu của hợp đồng phụ làm “chấm dứt” hợp đồng chính mà theo hướng các bên được thoả thuận “nếu đặt cọc bị vô hiệu là hợp đồng cũng bị vô hiệu”. Thực ra, tuỳ từng trường hợp và phụ thuộc vào nội dung của thoả thuận, chúng ta sẽ xác định hợp đồng chính vô hiệu (phải khôi phục lại tình trạng ban đầu) hay chấm dứt (không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu).

III. Tuyên bố Hợp đồng vô hiệu

Theo các quy định tại Chương VIII (Giao dịch dân sự) về giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch sẽ bị “tuyên bố vô hiệu” chứ không có quy định “hủy giao dịch” và các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu được áp dụng cho hợp đồng vô hiệu. Vì vậy, đối với hợp đồng vô hiệu thì cũng phải “tuyên bố hợp đồng vô hiệu”. Một số bản án tuyên “hủy hợp đồng vô hiệu” là không đúng vì “hủy hợp đồng” hay “chấm dứt hợp đồng” là chế tài dành cho tranh chấp hợp đồng có hiệu lực.

Theo quy định của điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015, thì các giao dịch được xác lập trước ngày BLDS có hiệu lực thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Vì vậy, đối với việc xác định thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì không phải áp dụng pháp luật ở thời điểm xác lập mà chỉ áp dụng quy định của BLDS.

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 132 BLDS, trong đó có một quy định rất quan trọng là: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”. Như vậy, một hợp đồng chỉ vô hiệu về hình thức, sau 2 năm kể từ ngày giao kết không có yêu cầu tuyên bố vô hiệu thì sẽ có hiệu lực mà không cần phải tiếp tục hoàn thiện về hình thức. Chỉ có 2 trường hợp quy định ở khoản 3 Điều 132 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố không bị hạn chế, đó là trường hợp vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS) và trường hợp vô hiệu do “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội” (Điều 123 BLDS).

Nhưng cần lưu ý rằng không phải cứ thuộc một trong những trường hợp quy định trong BLDS đều bị tuyên bố vô hiệu, ví dụ:

Không phải cứ “vi phạm điều cấm của luật” là trường hợp vi phạm thuộc Điều 123 BLDS.

Ví dụ: Hợp đồng mua bán nhà ở thì pháp luật quy định là phải có công chứng (khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014). Một hợp đồng mua bán nhà ở chưa có công chứng, dù không có các vi phạm khác thì vẫn là vi phạm quy định của Luật Nhà ở. Theo quy định của khoản 9 Điều 6 Luật Nhà ở năm 2014 thì “Thực hiện các giao dịch mua bán…không đúng quy định của Luật này” là “hành vi bị nghiêm cấm”. Do đó, hợp đồng mua bán nhà không có công chứng là một trường hợp “vi phạm điều cấm của luật”. Tuy nhiên, lại không phải là trường hợp quy định tại Điều 123 BLDS vì là vi phạm về hình thức của hợp đồng chứ không phải “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật”.

Bên cạnh đó, BLDS 2015 khác với BLDS 2005 ở chỗ BLDS 2015 đã thay đổi cụm từ “vi phạm điều cấm của pháp luật” thành “vi phạm điều cấm của luật” nên phạm vi hợp đồng bị tuyên vô hiệu đã thu hẹp hơn nhiều so với quy định trước đây. Ví dụ như: Hợp đồng mua bán hàng hóa có thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ vô hiệu do trái với quy định tại Pháp lệnh 06/2013/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Điều 3 Thông tư 32/2013/TT-NHNN nên theo quy định tại Điều 128 BLDS 2005 thì khi xét xử Toà án hoàn toàn có thể tuyên bố hợp đồng này vô hiệu. Tuy nhiên, nếu áp dụng BLDS 2015 để giải quyết thì trường hợp này không bị tuyên bố vô hiệu do căn cứ Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và điểm b khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 quy định Bộ luật, luật được ban hành bởi Quốc hội và Pháp lệnh và Thông tư không phải là những văn bản luật.

Không phải toàn bộ hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 129 BLDS đều bị tuyên bố vô hiệu.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Tuy nhiên, xoay quanh quy định này vẫn còn một số vấn đề còn bỏ ngỏ liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thứ nhất, quy định này có áp dụng cho giao dịch được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực pháp luật (ngày 01/01/2017) hay không? Thứ hai, khi Tòa án công nhận hiệu lực hợp đồng thì công việc tiếp theo của các bên là gì? Các bên phải tiến hành thủ tục chuyển nhượng hay bên nhận chuyển nhượng chỉ cần sử dụng bản án (đã công nhận hiệu lực hợp đồng) để được công nhận quyền sử dụng đất? Hai vấn đề trên vẫn chưa được hiểu thống nhất dẫn đến nhiều án bị hủy hoặc bị sửa.

Để giải quyết vấn đề nêu trên, ngày 14/10/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã thông qua Án lệ số 55/2022/AL ngày 07/9/2022 với nội dung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/01/2017 chưa được công chứng/chứng thực nhưng bên nhận chuyển nhượng đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ của mình thì trong trường hợp này, Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng.

Vì vậy, để đủ căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì còn phải xem xét các điều khoản khác có liên quan trong BLDS và các luật chuyên ngành, văn bản hướng dẫn thi hành để xem xét vụ việc có thuộc trường hợp ngoại lệ của trường hợp hợp đồng vô hiệu theo BLDS hay không.

IV. Giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu

Về giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu:

Theo quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015, thì khoản 1 là quy định có tính nguyên tắc chung cho việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, đó là: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập”.

Tại khoản 2 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Theo quy định của khoản 2 này thì việc trả lại hiện vật là ưu tiên, không thể trả bằng hiện vật được thì mới trả bằng tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản không còn nguyên vẹn như khi giao nhưng tài sản chính vẫn còn thì vẫn phải trả, phải nhận và được bổ sung bằng việc thanh toán cho nhau những chi phí hợp lý. Đó là hướng xử lý phù hợp với nguyên tắc quy định ở khoản 1.

Tại khoản 3 quy định: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Cần lưu ý phân biệt lợi tức với giá trị tăng thêm của tài sản do biến động của thị trường (lợi tức là “khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”). Ví dụ: A bán một ngôi nhà cho B. B. nhận nhà và trả đủ tiền mua nhà 5 tỉ đồng. B cho thuê nhà trong một năm được 150 triệu đồng. Sau một năm, A. và B. xác định hợp đồng mua bán nhà vô hiệu, giá nhà tăng lên là 7 tỉ đồng. Như vậy, lợi tức mà B. được hưởng khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là 150 triệu đồng chứ không phải là chênh lệch giá nhà 02 tỉ đồng.

Tại khoản 4 quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Toà án phải xác định lỗi của các chủ thể, làm căn cứ ấn định mức bồi thường thiệt hại. 

Hiện nay, việc xác định lỗi của các chủ thể khi giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được hướng dẫn tại điểm a.1 Điều 2.4 Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP:

Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà ở là hợp pháp (ví dụ, bên bán cung cấp thông tin sai làm cho bên mua hiểu nhầm về tư cách chủ thể, nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng với bên bán…). Khi hợp đồng được xác định là bị vô hiệu do lỗi của một bên, bên thực hiện hành vi có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Các bên cùng có lỗi nếu biết rõ việc giao kết hợp đồng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện việc giao kết hợp đồng (ví dụ, các bên cùng cố ý giao kết hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội…). Và cũng theo Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP thì thiệt hại từ hợp đồng vô hiệu còn bao gồm chênh lệch giá tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.

Từ hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu quy định ở khoản 1 Điều 131 BLDS cho thấy mọi thỏa thuận trong hợp đồng vô hiệu là không có giá trị ràng buộc (trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm) nên không thể xác định lỗi căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng. Lỗi được xác định là lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu chứ không phải là lỗi vi phạm hợp đồng.

Thực tế, trong quá trình giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu hiện nay, do quy định tại khoản 1 Điều 131 BLDS chỉ mang tính nguyên tắc, không quy định cụ thể nên các nhà thực thi pháp luật có nhiều ý kiến khác nhau về đường lối giải quyết, nhưng phức tạp nhất vẫn là nhận thức về vấn đề “bên có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại”. Thiệt hại vẫn xác định theo những quy định chung về xác định thiệt hại nhưng từ Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP thì thiệt hại từ giao dịch vô hiệu còn bao gồm chênh lệch giá tài sản từ thời điểm giao dịch đến thời điểm giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là hợp đồng chính vô hiệu nhưng những thỏa thuận về biện pháp bảo đảm có thể không vô hiệu nên Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP nêu trên đã quy định chỉ khi “không có đặt cọc và các bên không có thỏa thuận khác… thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch…”. Việc xác định lỗi cũng được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP. Từ giá trị pháp lý của giao dịch vô hiệu quy định ở khoản 1 Điều 131 cho thấy mọi thỏa thuận trong hợp đồng là không có giá trị ràng buộc (trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm) nên không thể xác định lỗi căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng. Lỗi được xác định là lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu chứ không phải là lỗi vi phạm hợp đồng.

Về phần hậu quả hợp đồng vô hiệu chưa có yêu cầu giải quyết

Theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, có những vấn đề phát sinh sau khi giao nhận tài sản. Do đó, ngoài việc trả lại tài sản còn phải giải quyết những vấn đề phát sinh là sự thay đổi của tài sản, hoa lợi, lợi tức của tài sản, bồi thường thiệt hại.

Thực tế, pháp luật dân sự hiện hành đang không có quy định bắt buộc phải giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu trong cùng một vụ án. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy có nhận thức khác nhau trong quá trình giải quyết và còn có rất nhiều bản án của cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm huỷ với lý do tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng không đồng thời giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.

Vì vậy, để giải quyết vướng mắc trên, vừa qua, TAND Tối cao đã có hướng dẫn thực hiện Điều 131 BLDS năm 2015, tại Công văn số 01/2017/GĐ- TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND Tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ đã nêu rõ: “…Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án...Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu…” và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Công văn 443/VKSTC-V9 ngày 15/02/2023 giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong đó, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao giải đáp vướng mắc về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, cụ thể: liên quan đến vụ việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án không hỏi, không giải thích cho các đương sự biết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà đến phiên tòa mới hỏi các đương sự có đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không. Các đương sự trả lời không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Tòa án căn cứ vào đó không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là đúng hay sai? Do vậy, trong trường hợp này, việc Tòa án chỉ hỏi mà không giải thích rõ cho các đương sự về hậu quả khi tuyên hợp đồng vô hiệu, không lập biên bản xác định rõ yêu cầu của các đương sự là thiếu sót. Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa án giải thích rõ cho các đương sự, nếu các đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết thì Tòa án lập biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án mới bảo đảm đúng quy định.

Vậy, để bảo đảm tính khả thi của các quy định của BLDS năm 2015 và tránh việc hiểu không đồng nhất, tuy một số vấn đề đã được giải đáp nhưng chúng tôi cho rằng để thống nhất cách hiểu quy định pháp luật, Toà án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về việc xác định lỗi gây thiệt hại phải bồi thường để tạo sự thống nhất trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Đối với trường hợp hợp đồng bị vô hiệu do lỗi của các bên, cần xác định mức độ lỗi làm căn cứ ấn định mức bồi thường. Nếu các bên cùng có lỗi tương đương nhau, thì mỗi bên chịu trách nhiệm bồi thường 1/2 thiệt hại; nếu mức độ lỗi của các bên không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của các bên.

Thông qua những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên cần lưu ý nắm rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng để tránh mâu thuẫn không đáng có xảy ra, khiến cho mọi quyền và lợi ích của các bên không được đảm bảo, không có căn cứ giải quyết nếu xảy ra tranh chấp.

Tài liệu tham khảo:

BLDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

PGS.TS Đỗ Văn Đại - Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án.

Luật sư HOÀNG PHƯƠNG TRANG

Công ty Luật TNHH Vietthink

Bàn về điều kiện kinh doanh Condotel theo Luật Kinh doanh bất động sản 2023

Nguyễn Hoàng Lâm