(LSO) – Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa, theo chúng tôi đó là khả năng Kiểm sát viên sử dụng những tri thức của bản thân một cách nhuần nhuyễn, có hiệu quả vào hoạt động tranh tụng tại phiên tòa trên nền những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất định trong hoạt động tranh tụng.
Trong tiến trình cải cách tư pháp, để tăng cườngtranh tụng tại phiên tòa nhằm đạt được mục đích của tố tụng hình sự là phát hiệnchính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, khôngđể lọt tội phạm, không làm oan người vô tội thì các bên tham gia tranh tụng tạiphiên tòa phải thể hiện được vai trò của mình. Đối với Kiểm sát viên, để thựchiện được vai trò công tố buộc tội bị cáo tại phiên tòa, đòi hỏi Kiểm sát viênphải có những phẩm chất, kỹ năng nghề nghiệp nhất định. Một trong những kỹ nănghết sức quan trọng đó là kỹ năng giao tiếp trong tranh tụng tại phiên tòa vớinhững người tiến hành tố tụng (như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòaán); kỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với những người tham gia tố tụng (như: người bịhại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan, luật sư, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợppháp cho người khác, người giám định, người phiên dịch, bị cáo,...).
Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong tranh tụngtại phiên tòa, theo chúng tôi đó là khả năng Kiểm sát viên sử dụng những tri thứccủa bản thân một cách nhuần nhuyễn, có hiệu quả vào hoạt động tranh tụng tạiphiên tòa trên nền những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất định trong hoạt độngtranh tụng như: Kỹ năng lắng nghe; Kỹ năng quan sát; Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ;Kỹ năng đặt câu hỏi; Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể; Kỹ năng rà soát lại nhữngcáo buộc của Kiểm sát viên; Kỹ năng đối đáp, phản bác các quan điểm sai trái; Kỹnăng thuyết phục; Kỹ năng xử lý đối với các tình huống đột xuất, bất thường; Kỹnăng duy trì sự tự tin; Kỹ năng từ chối giao tiếp; Kỹ năng ghi nhớ và bảo đảm sựnhất quán trong trình bày các nội dung đã chuẩn bị từ trước; Kỹ năng thay đổitrạng thái giao tiếp; Kỹ năng ghi nhận những điểm tương đồng; Kỹ năng sử dụngcác công cụ, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. Những kỹ năng này sẽ được chúng tôiđi sâu vào phân tích dưới đây:
Kỹ năng lắng nghe
Tại phiên tòa, sau khi công bố bản cáo trạng, Kiểmsát viên phải chú ý lắng nghe Hội đồng xét xử đặt câu hỏi đối với bị cáo và nhữngngười tham gia tố tụng khác, đồng thời chú ý lắng nghe lời trình bày của họ nhằmgiúp Kiểm sát viên phát hiện những vấn đề liên quan của vụ án chưa được xét hỏiđể khi đến lượt mình xét hỏi, Kiểm sát viên có thể đặt câu hỏi bổ sung một cáchchính xác, đầy đủ, giúp cho quá trình điều tra công khai tại phiên tòa đượctoàn diện.
Lắng nghe bị cáo và những người tham gia tố tụngtrình bày tại phiên tòa sẽ giúp Kiểm sát viên thấy được sự khác biệt, thay đổigiữa hồ sơ vụ án đã được thu thập và diễn biến thực tế tại phiên tòa có gì giốngnhau và khác nhau để khi luận tội hay tham gia tranh luận, đối đáp, Kiểm sátviên có những nhận định, đánh giá và đề xuất xử lý vụ án được xác thực và toàndiện hơn.
Có lắng nghe tại phiên tòa mới có thể giúp Kiểm sátviên rút ra những chứng cứ thuyết phục, có giá trị cao vì nó được khai thác từchính nguồn chứng cứ là các lời khai vừa được trình bày tại phiên tòa và tấtnhiên, việc luận tội, đề nghị giải quyết vụ án của Kiểm sát viên với Hội đồngxét xử, cũng như việc thực hiện đối đáp tại phiên tòa, mới có kết quả tốt.
Khi tranh luận tại phiên tòa đòi hỏi Kiểm sát viênphải chú ý lắng nghe mới có thể phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong việc bảovệ các luận cứ bào chữa của Luật sư, người bào chữa, bị cáo, để đưa ra quan điểmphản bác một cách hiệu quả, thuyết phục được Hội đồng xét xử và những ngườitham dự phiên tòa.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải chú ý lắng nghe đểphát hiện, vạch trần những lời khai gian dối, lời khai đổ lỗi, vu khống... đượctrình bày tại phiên tòa, góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, chínhxác. Thông qua việc chú ý lắng nghe sẽ giúp Kiểm sát viên phát hiện những nộidung mà bị cáo, người tham gia tố tụng trình bày dài dòng, không liên quan đếnvụ án để đề xuất với Chủ tọa phiên tòa cắt những lời trình bày này.
Thái độ tích cực lắng nghe của Kiểm sát viên tạiphiên tòa là một trong những chỗ dựa tinh thần quan trọng đối với người bị hại,nhân chứng, bị cáo..., tạo cho họ sự tin tưởng vào pháp luật, tin tưởng vàocông lý, từ đó trình bày lời khai tại tòa một cách trung thực, thành khẩn, đầyđủ, giúp Kiểm sát viên hiểu rõ bản chất vụ án để đưa ra những đề nghị thấutình, đạt lý với Hội đồng xét xử.
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sátviên phải chú ý lắng nghe chủ tọa phiên tòa điều hành phiên tòa thì mới có thểthực hiện những nhiệm vụ của mình một cách chuẩn xác, kịp thời.
Kỹnăng quan sát
Phải có kỹ năng quan sát tốt tại phiên tòa khi tranhtụng mới giúp Kiểm sát viên phát hiện được sự đồng tình của Hội đồng xét xử vànhững người tham gia phiên tòa để tiếp tục phát huy hay ngược lại là phát hiệnsự phản đối, không đồng tình với Kiểm sát viên để nhanh chóng điều chỉnh cáchthức, biện pháp tranh tụng sao cho phù hợp. Có như vậy, hoạt động tranh tụng củaKiểm sát viên tại phiên tòa mới đạt hiệu quả cao.
Khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viênphải có kỹ năng quan sát tốt mới có thể phát hiện sự bất thường trên khuôn mặt,cử chỉ, hành động của những người được thẩm vấn tại phiên tòa. Ví dụ như nhữngbiểu hiện: khuôn mặt đang từ bình thường chuyển sang tái nhợt, mồ hôi tự dưngtúa ra, đảo mắt liên tục để tìm kiếm sự hỗ trợ,... đây là những dấu hiệu thườngthấy ở những đối tượng có sự khai báo gian dối, che giấu sự thật. Quan sát pháthiện được những biểu hiện như vậy sẽ giúp Kiểm sát viên có những phương pháp,chiến thuật thích hợp để vạch trần sự khai báo không trung thực của người đượcthẩm vấn tại phiên tòa.
Sự nhanh nhẹn trong quan sát khi tranh tụng tạiphiên tòa giúp Kiểm sát viên dễ phát hiện được những vi phạm của những ngườitham gia và tiến hành tố tụng để kịp thời đề nghị Chủ tọa phiên tòa có sự chấnchỉnh và xử lý thích hợp, bảo đảm việc tranh tụng trong phiên tòa thật sự kháchquan, dân chủ, bình đẳng.
Khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi Kiểmsát viên phải có kỹ năng quan sát mới có thể phát hiện được những đối tượng, bịcáo cần phải được cách ly khi tiến hành xét hỏi để đề xuất với Hội đồng xét xử,nhằm tránh sự thông cung, khai báo gian dối của các đối tượng này.
Kỹnăng sử dụng ngôn ngữ
Tham gia tranh tụng tại phiên tòa, nếu Kiểm sát viêncàng giành được nhiều sự đồng tình ủng hộ của Hội đồng xét xử và những ngườitham dự phiên tòa thì càng chứng tỏ năng lực của Kiểm sát viên. Muốn vậy, khigiao tiếp, Kiểm sát viên phải có khả năng sử dụng ngôn từ thật sự đơn giản, tựnhiên, trong sáng, lưu loát, dễ hiểu, có cách hành văn rõ ràng, mạch lạc với nhữngcâu văn khúc chiết, tường minh, sẽ có khả năng thuyết phục người nghe tốt hơnnhững trường hợp Kiểm sát viên sử dụng ngôn ngữ có quá nhiều từ địa phương,cách trình bày dài dòng, vòng vo, sử dụng những từ tối nghĩa, câu văn lủng củng,khó hiểu... Cá biệt, có những trường hợp Kiểm sát viên sử dụng lời lẽ đao to,búa lớn hay lời lẽ mang tính mạt sát còn tạo ra sự phản cảm đối với Hội đồngxét xử và người nghe.
Kỹnăng đặt câu hỏi
Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng đối vớiKiểm sát viên khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Bởi chỉ khi nào Kiểm sátviên đặt được câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, có trọng tâm, trọng điểm khi tham giaxét hỏi thì mới có thể nhận được câu trả lời thích đáng, giúp Kiểm sát viên chứngminh được tội phạm và hành vi phạm tội, đề xuất giải quyết tốt những vấn đề dânsự trong vụ án hình sự, đề xuất xử lý vật chứng đầy đủ, chính xác và đề xuất đượcviệc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được công minh.
Khi tham gia tranh luận, đối đáp với bị cáo, luậtsư, người bào chữa trong nhiều tình huống, Kiểm sát viên phải biết cách đặt câuhỏi để bác bỏ những luận điểm bào chữa sai trái, không có cơ sở.
Khi đặt câu hỏi trong tranh tụng tại phiên tòa cũngđòi hỏi Kiểm sát viên phải biết nêu câu hỏi có thứ tự, logic, câu hỏi đưa ra phảiphù hợp với đối tượng được hỏi, nếu không sẽ không thể thu nhận được thông tinnhư mong muốn, điều đó đồng nghĩa với việc hiệu quả tham gia tranh tụng khôngcao.
Kỹnăng sử dụng ngôn ngữ cơ thể
Ngôn ngữ cơ thể có tác dụng tạo sự uy nghiêm hoặcngược lại, tạo nên sự mất uy thế của người sử dụng. Đối với Kiểm sát viên khitham gia tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi phải có phong thái ung dung, đànghoàng, đĩnh đạc, giọng nói truyền cảm, to, rõ, nét mặt nghiêm túc, tươi tắn,ánh mắt nhân từ, vị tha, nụ cười hiền hòa, nhân hậu ... Những ngôn ngữ cơ thểnày có thể tạo ra cho Kiểm sát viên uy thế khi tham gia tranh tụng và giao tiếptại phiên tòa. Ngược lại, nếu Kiểm sát viên có dáng đi liêu xiêu, tác phong thểhiện sự hấp tấp, vội vã, nét mặt toát nên sự lạnh nhạt... sẽ làm mất uy thế củaKiểm sát viên khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Những cái gật đầu bày tỏ sự đồng ý của Kiểm sát viênkhi nghe bị cáo và những người tham gia phiên tòa trình bày dễ dàng tạo được sựtin tưởng của người trình bày, khuyến khích họ trình bày được đầy đủ hơn, chínhxác hơn.
Ánh mắt nhìn nghiêm khắc, khuôn mặt bày tỏ thái độkhông đồng tình, giọng nói đanh thép sẽ có tác dụng trong đấu tranh ngăn cản vàhạn chế những quan điểm sai trái, những bị cáo và người khai báo gian dối,quanh co, chối tội.
Những cái vung tay hợp lý của Kiểm sát viên trongtranh luận sẽ tạo thêm sự thuyết phục đối với người nghe.
Kỹnăng rà soát lại những cáo buộc của Kiểm sát viên
Thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa, Kiểm sátviên đã cáo buộc bị cáo bằng việc công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố củaViện Kiểm sát. Tuy nhiên, cho dù là cáo trạng hay quyết định truy tố thì đều đượcxây dựng trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án trước khi mởphiên tòa. Do nhận thức về vụ án là một quá trình nên tất yếu sẽ có những trườnghợp tại phiên tòa phát sinh những tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án. Gặptrường hợp này, đòi hỏi Kiểm sát viên phải kịp thời phát hiện những cáo buộcnào không còn cơ sở khẳng định để tuyên bố rút một phần hoặc toàn bộ quyết địnhtruy tố cho phù hợp với diễn biến thực tế nhằm phát huy tính dân chủ, bình đẳngtrong tranh tụng tại phiên tòa.
Khả năng ghi nhớ và bảo đảm sự nhất quán trong trìnhbày các nội dung đã chuẩn bị từ trước, rà soát lại những cáo buộc của Kiểm sátviên cũng đồng nghĩa với việc tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát hiện được từngvấn đề cần phải giải quyết của vụ án, đã có những chứng cứ nào chứng minh tronghồ sơ vụ án, những chứng cứ nào mới được bổ sung tại phiên tòa và những chứng cứnào mất giá trị sử dụng qua điều tra công khai tại phiên tòa, để từ đó giúp Kiểmsát viên tranh luận, đối đáp một cách thuyết phục khi thực hiện tranh tụng tạiphiên tòa.
Kỹnăng thuyết phục, động viên
Đây là một kỹ năng quan trọng mà Kiểm sát viên cầncó khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa, bởi Kiểm sát viên thường xuyên phải độngviên, thuyết phục các bị cáo và người khác trong trường hợp họ chối tội, phảncung hoặc thay đổi lời khai trước đó.
Sự thuyết phục, động viên của Kiểm sát viên sẽ củngcố lòng tin của những người có nghĩa vụ khai báo trước tòa nhưng vì lý do nàođó họ lại không muốn khai báo, hơn nữa, còn tạo ra sự tin tưởng cho những đốitượng khai báo thành khẩn, giúp họ khai báo rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, chính xáchơn.
Kỹ năng động viên, thuyết phục của Kiểm sát viêntrong tranh tụng tại phiên tòa sẽ củng cố lòng tin vào công lý của người bị hại,cũng như thân nhân của họ, một số trường hợp làm giảm bớt sự bức xúc từ phíangười bị hại, giúp bị cáo thấy được lỗi lầm của mình để khai báo thành khẩn, tạora sự đồng tình, ủng hộ của những người tham dự phiên tòa, củng cố niềm tin nộitâm cho các thành viên Hội đồng xét xử khi phán quyết đối với vụ án.
Kỹnăng đối đáp, phản bác các quan điểm sai trái
Khi tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham giađối đáp phải có giọng nói to, khỏe, rõ ràng, dõng dạc, truyền cảm, phát âm ngoạingữ chuẩn xác và thống nhất, bảo đảm việc đối đáp đầy đủ với từng luận điểm màluật sư, người bào chữa, bị cáo nêu ra với mục đích bảo vệ cáo trạng.
Khi tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải kịpthời phát hiện những luận điểm, quan điểm sai trái của những người tranh tụng vớimình để bác bỏ và đề nghị Hội đồng xét xử ra phán quyết đầy đủ, đúng đắn.
Kỹnăng duy trì sự bình tĩnh xử lý đối với các tình huống đột xuất, bất thường
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa sẽ xuất hiện nhiềutình huống đột xuất, bất thường đến với Kiểm sát viên như phát hiện những tìnhtiết, vấn đề mới tại phiên tòa mà trước đó hồ sơ vụ án chưa thể hiện hoặc tuycó thể hiện nhưng Kiểm sát viên hiểu không đúng, chưa dự liệu hết, hay có sự cổvũ hoặc phản đối thái quá của những người tham dự phiên tòa lưu động, có sự tấncông, xúc phạm Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên,... Trong những tình huống này,đòi hỏi Kiểm sát viên phải hết sức bình tĩnh, tìm phương án tối ưu đề nghị kịpthời với Hội đồng xét xử, có biện pháp đảm bảo việc tranh tụng được dân chủ, đầyđủ, khách quan và đúng pháp luật.
Kỹnăng từ chối giao tiếp
Khi tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên thườngxuyên có sự đối kháng về lý lẽ đối với bị cáo, luật sư, người bào chữa, người bảobảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo... Trong quá trình đấu lý như vậy,có những trường hợp phía đối lập nêu ra những câu hỏi không thuộc phạm vi xemxét của vụ án, đưa ra những yêu cầu một cách quá đáng đối với Kiểm sát viênđang duy trì công tố. Trong tình huống này, Kiểm sát viên cần phát hiện những nộidung không thuộc nghĩa vụ giao tiếp của mình để từ chối giao tiếp, từ chối trảlời câu hỏi, cũng như từ chối tranh luận bảo đảm lịch sự, văn minh.
Khi từ chối giao tiếp theo đề nghị của Chủ tọa phiêntòa như không tham gia việc xét hỏi, không trả lời câu hỏi thì Kiểm sát viên cầntrình bày rõ lý do, bảo đảm phù hợp với văn hóa giao tiếp, ứng xử tại phiêntòa.
Kỹnăng thay đổi trạng thái giao tiếp
Tham gia tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên phảigiao tiếp với rất nhiều đối tượng khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, bịcáo, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch... Như vậy, khi thay đổiđối tượng giao tiếp khác nhau cũng đòi hỏi Kiểm sát viên phải thay đổi trạngthái giao tiếp cho phù hợp, từ cách đặt câu hỏi, cách trả lời, cách giáo dục,thuyết phục để khai thác thông tin. Có như vậy mới giúp Kiểm sát viên thu đượcnhững thông tin cần thiết, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ của mình, hơn nữa, có thểthuyết phục các đối tượng này ủng hộ, thừa nhận những quan điểm của Kiểm sátviên trong giải quyết vụ án hình sự.
Kỹnăng ghi nhận những điểm tương đồng
Tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên không phảilúc nào cũng là bác bỏ các quan điểm của bên đối tụng mà ngược lại, có nhiều điểm,bên đối tụng với Kiểm sát viên đưa ra phù hợp với nhau, phản ánh đúng sự thậtkhách quan của vụ án, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án, khi đó, Kiểm sát viênkhông được định kiến và phải nhanh nhạy phát hiện ra những điểm, những yếu tốtương đồng, thống nhất với nhau để sử dụng vào việc thực hiện chức năng, nhiệmvụ của mình trong tranh tụng.
Kỹnăng sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học côngnghệ, có rất nhiều công cụ, phương tiện, kỹ thuật hỗ trợ Kiểm sát viên thực hiệnviệc tranh tụng tại phiên tòa, như: máy ghi âm, máy chiếu, máy tính xáchtay,... đòi hỏi Kiểm sát viên phải có kỹ năng sử dụng các thiết bị này, có nhưvậy mới góp phần hỗ trợ Kiểm sát viên giao tiếp thành công trong tranh tụng tạiphiên tòa. Mặt khác, trong tương lai, khi chứng cứ điện tử được ghi nhận trongBộ luật tố tụng hình sự thì càng đòi hỏi kỹ năng sử dụng các công cụ, phương tiệnkỹ thuật hỗ trợ của Kiểm sát viên khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Như vậy, có thể nói, kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa rất đa dạng, các kỹ năng này có một giá trị rất lớn giúp cho Kiểm sát viên tham gia tranh tụng có hiệu quả. Tuy nhiên, để các kỹ năng được bộc lộ, áp dụng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên thì Kiểm sát viên phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện. Mặt khác, VKSND các cấp cần triển khai các giải pháp tích cực, góp phần hoàn thiện kỹ năng giao tiếp cho Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa, như: thường xuyên tổ chức phiên tòa mẫu, phiên tòa rút kinh nghiệm, tổng kết, nhận xét, đánh giá những mặt được và chưa được của việc thực hiện các kỹ năng giao tiếp này, coi đây là một trong các tiêu chí xem xét thi đua, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong việc tiếp tục duy trì mô hình tố tụng thẩm vấn, có tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng.
TS. Nguyễn Đức Hạnh (BVPL)