Trong các phiên họp chuyên đề về pháp luật mới đây, các đại biểu Quốc hội bày tỏ quan điểm có không ít dự án luật chưa đạt chất lượng, luật vừa mới ban hành 1-2 năm đã phải xem xét sửa đổi, bổ sung. Rồi cũng có tình trạng luật lúc đầu chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều nhưng sau đó lại thành luật sửa đổi. Có luật dự kiến thông qua 2 kỳ họp, sau đó phải kéo dài sang 3 kỳ khiến cho ngân sách Nhà nước, tiền thuế người dân lại phải chi thêm cho những phần không đáng có.
Theo ông Mai Hồng Hải (đại biểu Quốc hội TP. Hải Phòng): Một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bắt nguồn từ công tác hoạch định chính sách và phân tích chính sách. Các dự thảo luật đều được Chính phủ thông qua trước khi trình Quốc hội, nhưng khi trình ra thì có thể các đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có quan điểm khác, ý kiến khác nên khi thông qua có thể nội dung khác lúc trình rất nhiều.
Trao đối với phóng viên Tạp chí Luật sư, GS. TS Nguyễn Đăng Dung cho hay: Để xảy ra tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công trong xây dựng luật” trước tiên bắt nguồn từ chính những người làm luật chưa hiểu quy trình, cách làm và chưa hiểu bản chất vấn đề của việc khi nào cần ban hành luật.
GS Dung cho rằng: Việc làm luật phải giống như “vá săm xe”, khi nào thấy thực sự cần thiết, thấy bất đắc dĩ không còn cách nào khác mới phải làm luật. Còn không khi cuộc sống chưa cần (lốp xe vẫn còn nguyên vẹn) thì không phải cố “chọc” ra để làm, như thế là tốn kém, lãng phí tiền bạc của người dân.
Tuy nhiên, các nhà làm luật hiện nay vẫn “theo quy trình” vài năm lại sửa luật một vài lần, cứ cố phải “sửa đổi, bổ sung” nhằm đưa lợi ích của tổ chức, cá nhân mình vào trong đó chứ thực ra cuộc sống vẫn vận hành tốt mà đâu cần thiết phải sửa luật. Một lý do quan trọng nữa được GS Dung đưa ra về việc văn bản pháp luật hiện nay còn nhiều bất cập đó là: Người làm chính sách không đưa “hơi thở” cuộc sống vào trong xây dựng luật, khiến nhiều văn bản ban hành không có tính khả thi hay còn gọi là thực trạng “làm luật trong phòng máy lạnh”. Điều này không chỉ gây ra lãng phí về nguồn ngân sách Nhà nước mà còn khiến chính những người làm luật tự đánh mất đi sự tin tưởng của nhân dân.
Từ tư duy xây dựng, ban hành luật còn nhiều bất cập dẫn đến việc luật cứ đưa ra là phải sửa đổi, bổ sung liên tục. Thậm chí có bộ luật vừa mới ban hành đã có đến trăm lỗi sai về mặt lập pháp nên phải kéo dài thời gian có hiệu lực thi hành đến 3 năm sau đó.
Tiếp đến, GS Dung nêu quan điểm: Tình trạng “luật ở trên trời, cuộc đời ở dưới đất”, luật vừa ban hành đã phải sửa đối, bổ sung ngay tức thời trong đó một phần trách nhiệm cũng thuộc về người dân. Ngay từ đầu người dân đã không quá để ý đến quy trình đóng góp ý kiến trong xây dựng luật, họ cho rằng việc làm luật là của Nhà nước; chỉ khi nào xuất hiện kiện cáo thì khi đó họ mới thực sự quan tâm đến luật - thứ mà vốn dĩ ngay từ đầu phải dành nhiều sự ưu tiên.
Để giải quyết thực trạng đáng báo động về cách làm luật hiện nay, GS Dung cho rằng đây không phải câu chuyện một sớm một chiều, không phải câu chuyện chỉ có vài cá nhân cùng nhau làm luật mà nó đã “ngấm” vào cách vận hành của cả một hệ thống.
Trước hết, người làm chính sách phải hình thành cho mình tư duy làm luật, tư duy đó phải xuất phát từ vấn đề cuộc sống đặt ra chứ không chỉ nhìn vào hiện tượng, hiện tượng chỉ là “bề nổi” ở phía trên còn nguyên nhân mới là gốc rễ của vấn đề. Để nhìn ra được vấn đề phải làm thì người làm chính sách cần có chất xám, cần thực tiễn kinh nghiệm nghề nghiệp, cần đưa cuộc sống vào trong luật chứ không phải đưa luật vào cuộc sống. Luật pháp phải xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của người dân chứ không phải “theo quy trình” vài năm lại đưa ra để bàn bạc. Đồng thời chính những người làm chính sách phải có sự liêm chính trong xây dựng luật, vì nếu không có liêm chính sẽ tạo ra những văn bản rất nhiều “khuyết tật”, biến văn bản pháp luật thành công cụ để cơ quan soạn thảo “hoặc là hiện thực hóa lợi ích của bộ, ngành mình, trong đó có những lợi ích xung đột với lợi ích của nhân dân; hoặc là công cụ để tiếm quyền của bộ, ngành khác”.
Tiếp theo, ông cũng khẳng định cần thiết phải đặt ra trách nhiệm của người làm chính sách, vấn đề trách nhiệm ở đây không phải là đè nặng áp lực mà khiến họ phải có ý thức hơn trong việc xây dựng luật. Khi động chạm đến quyền lợi của những người này, ít nhiều họ cũng có phần “biết sợ” mà không ấn “bừa” nút thông qua hay biểu quyết theo số đông. Nếu làm luật không khéo thì sẽ hợp pháp hóa quyền lợi của một nhóm người thiểu số và cướp đi quyền lợi của đa số nhân dân. Do đó chức năng của lập pháp là bảo vệ quyền con người, là tránh sự lạm dụng từ phía cơ quan công quyền.
Đồng thời, để tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công trong xây dựng luật” chấm dứt thì chính người dân cũng cần thay đổi tư duy về việc làm luật, thay vì suy nghĩ “để Nhà nước làm luật” thì cần suy nghĩ “làm luật vì quyền lợi hợp pháp của mình”. Khi có quy trình lấy đóng góp ý kiến của người dân đối với các dự án luật thì chính họ phải hăng hái hưởng ứng, nhiệt liệt bàn bạc, trước hết vì luật làm ra là để bảo vệ quyền lợi của chính họ, sau đó mới là lợi ích quốc gia dân tộc. Chính sự giám sát, phản biện ngay từ khâu đầu vào của người dân là một giải pháp quan trọng để luật mới ban hành mang hơi thở của cuộc sống.
Cuối cùng, GS. TS Nguyễn Đăng Dung đồng tình với quan điểm của đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc (đại biểu tỉnh Đồng Nai) về hy vọng: Mong một ngày không xa người dân vào Hội trường Diên Hồng không những được tham quan mà còn được quan sát, theo dõi hoạt động của Quốc hội. Và tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công trong xây dựng luật” sẽ chấm dứt để ngân sách Nhà nước không phải tốn kém cho những khoản chi này.
VŨ THỦY