(LSVN) - Hàng xóm của tôi có đi vay tiền nhưng đến hạn không có khả năng chi trả. Sau đó, chủ nợ có đến và dùng cách lấy tài sản trừ nợ của gia đình hàng xóm tôi. Vậy, tôi muốn hỏi hành vi này có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì là phạm tội gì và bị xử lý thế nào?
Lấy tài sản của người vay để siết nợ là vi phạm pháp luật
Vay tài sản là giao dịch dân sự phổ biến phát sinh nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, không phải lúc nào giữa con nợ cũng thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.
Khi đến hạn mà bên vay không trả được nợ, nhiều trường hợp chủ nợ đã tự ý định đoạt tài sản của người vay bằng cách cướp, bán, cầm cố… để thay thế cho khoản nợ còn thiếu.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Dân sự 2015, người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.
Như vậy, hành vi tự ý định đoạt tài sản của người vay hay để “siết nợ” là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác. Vì vậy, siết nợ có thể xử lý theo quy định của pháp luật.
Lấy tài sản của người vay để siết nợ phạm tội gì?
Thông thường, khi siết nợ, chủ nợ thường thực hiện các hành vi như cướp tài sản, dùng vũ lực đe dọa để lấy tài sản của con nợ.
Với các hành vi trên, tùy vào tính chất, mức độ và tình huống cụ thể mà chủ nợ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội sau:
Tội "Cướp tài sản"
Tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định, người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Ngoài ra, nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 đến dưới 200 triệu đồng… thì có thể bị phạt tù từ 07 - 15 năm.
Trường hợp phạm tội khi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đến dưới 500 triệu đồng, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%... thì bị phạt tù từ 12 - 20 năm.
Nặng nhất, người phạm tội còn có thể bị phạt tù từ 18 - 20 năm hoặc tù chung thân khi chiếm đoạt tài sản trị giá trên 500 triệu, làm chết người…
Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.Như vậy, nếu chủ nợ thực hiện hành vi cướp tài sản để siết nợ thì có thể bị phạt tù đến 20 năm, phạt tiền đến 100 triệu đồng.
Tội "Cưỡng đoạt tài sản"
Nếu chủ nợ đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người vay để chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cưỡng đoạt tài sản tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Cụ thể, mức phạt với tội "Cưỡng đoạt tài sản" là phạt tù từ 01 - 05 năm.
Tuy nhiên, người phạm tội còn có thể bị bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng khác như:
- Phạt tù từ 03 - 10 năm khi chiếm đoạt tài sản từ 50 đến dưới 200 triệu đồng; phạm tội với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu…
- Phạt tù từ 07 - 15 năm khi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 đến dưới 500 triệu đồng; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Phạt tù từ 12 - 20 năm khi chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên…
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, trường hợp siết nợ phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản" thì chủ nợ có thể phải đi tù đến 20 năm, phạt tiền đến 100 triệu.
Tóm lại, chủ nợ khi không đòi được nợ thì cũng không được lấy tài sản để siết nợ. Để đòi nợ đúng luật khi quá hạn, người cho vay chỉ có thể khởi kiện lên Tòa án yêu cầu người vay trả nợ.
NGỌC ANH