Điều 2 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2015, quy định về khái niệm luật sư như sau: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng).”
Theo đó, luật sư là một chức danh độc lập trong hệ thống các chức danh nghề nghiệp, thực hiện công việc cung cấp những dịch vụ pháp lý một cách độc lập, chuyên nghiệp góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Trong đó có một vai trò quan trọng của một luật sư là trợ giúp pháp lý, thông qua hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong và ngoài tố tụng. Đồng thời, luật sư còn tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật về cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ảnh minh hoạ.
Từ khái niệm trên có thể thấy được rằng luật sư không chỉ bảo vệ cho các cá nhân, tổ chức mà còn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích công cộng.
Hiện nay, “lợi ích công cộng” là một thuật ngữ chưa được pháp luật Việt Nam nêu khái niệm một cách chính thức. Hiểu một cách khái quát và ngắn gọn, “lợi ích công cộng” là các lợi ích chung của cộng đồng, hướng tới mục tiêu là sự phát triển phồn vinh và bền vững về chất lượng đời sống vật chất và đời sống tinh thần của mọi người dân trong xã hội. Bảo vệ lợi ích công cộng là hướng đến bảo vệ tài sản Nhà nước, bảo vệ trật tự an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù, luật sư và hoạt động hành chính công đều có mục đích là bảo vệ thể chế pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích công cộng. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 2 và Điều 12 Luật Trợ giúp pháp lý: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Và tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp theo quy định của Luật này.
Như vậy, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua việc ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý. Theo đó, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng ký kết với Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý (Sở Tư pháp ký kết hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư).
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 11 Luật này, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do UBND cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Theo các quy định trên, nếu như trong hoạt động trợ giúp pháp lý, luật sư chỉ trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng thuộc quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và có thể lấy tiền từ các dịch vụ pháp lý với đối tượng khác thì đối với hoạt động hành chính công lại khác. Hoạt động hành chính công được Nhà nước chi trả bằng lương cho các cán bộ, công chức, viên chức, khi họ tiến hành trợ giúp pháp lý không phải theo vụ việc mà là trách nhiệm, nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Là một công chức nhà nước, họ phải phục vụ nhu cầu của nhân dân và đương nhiên sẽ không lấy phí. Sau 6 năm triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, hoạt động trợ giúp pháp lý đã được đánh giá cao trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên hoạt động trợ giúp pháp lý này lại đang chỉ nhắm tới đối tượng là những người yếu thế trong xã hội chứ không đề cập tới đối tượng là nhà nước, cụ thể là hoạt động dịch vụ công.
Hoạt động trợ giúp pháp lý là một trong những hoạt động quan trọng của luật sư. Hoạt động trợ giúp pháp lý tại các quốc gia trên thế giới hiện nay đang được thực hiện song song bởi mô hình luật sư công và luật sư tư. Mô hình luật sư công đã xuất hiện từ lâu ở một số nước trên thế giới như: Singapore, Đông Timo, Mỹ, Agrentia, Úc… Trong khi đó, tại Việt Nam, khái niệm luật sư công không phải mới nhắc đến mà đã được đề cập từ khi tiến hành xây dựng Luật luật sư năm 2006. Tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chính thức nào về luật sư công.
Có quan điểm cho rằng, luật sư công là công chức trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Theo quan điểm này, luật sư công làm việc trong bộ máy nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Quan điểm khác cho rằng, luật sư công là những luật sư được cơ quan, tổ chức Nhà nước thuê để thực hiện hoạt động pháp lý chuyên môn, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước. Ngoài ra, cũng có quan điểm thu hẹp phạm vi của luật sư công, chỉ những trường hợp được chỉ định bởi cơ quan tiến hành tố tụng mới coi đó là luật sư công.
Theo tôi, khái niệm “Luật sư công” được hiểu là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với các hoạt động liên quan đến dịch vụ công. Theo đó, luật sư công do cơ quan nhà nước thuê để thực hiện các hoạt động nghề nghiệp chuyên môn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan nhà nước, cá nhân đại diện cho cơ quan nhà nước. Việc lựa chọn quan điểm này có thể đảm bảo hơn về tính khách quan, độc lập và nguyên tắc tranh luận dân chủ của luật sư khi tham gia tố tụng.
Trong vụ án hành chính, ngoài việc yêu cầu các chủ thể đủ điều kiện theo pháp luật quy định bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đương sự còn có thể ủy quyền cho chủ thể khác đại diện tham gia như sau: “Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này.” Theo đó, trong tố tụng hành chính, người thuộc cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực liên quan đến vụ án được pháp luật công nhận vai trò là người đại diện cho cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Luật sư công không những thực hiên việc trợ giúp pháp lý, bảo vệ cho những người yếu thế trong xã hội mà còn bảo vệ cho những người hoạt động trong lĩnh vực hành chính công. Họ là những người có chức vụ, chuyên môn, thẩm quyền được nhà nước giao phó hoặc những cá nhân hành động trong tình huống khẩn cấp, những người nhân danh chính họ và nhân danh lợi ích của Nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của toàn dân, bảo vệ giá trị tốt đẹp của xã hội.
Sáng ngày 03/12 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã có buổi tiếp xúc cử tri, báo cáo kết quả sau Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV và lắng nghe các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Tại buổi tiếp xúc, Tổng Bí thư nhấn mạnh, việc gìn giữ nét thanh lịch, văn minh của Hà Nội không chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền Thủ đô mà còn phải là sự đồng lòng, góp sức của mọi người dân. Theo Tổng Bí thư, việc khắc phục hậu quả sau cơn bão số 3 đã cho thấy những khiếm khuyết cần khắc phục của thành phố, bao gồm cả trách nhiệm của chính quyền và trách nhiệm của từng công dân. Tổng Bí thư gợi mở về những giải pháp và khẳng định cần thiết phải có sự chung tay, đồng sức, đồng lòng của từng cá nhân trong xã hội, cùng với chính quyền gìn giữ nét đẹp văn hiến truyền thống trong bối cảnh xã hội phát triển hiện nay.
Phục vụ cho việc khuyến khích người dân chung tay xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa, tôi cho rằng cần thiết phải ghi nhận những đóng góp, hành động vì lợi ích công đối với những người nhân danh cá nhân, tổ chức để bảo vệ lợi ích cộng đồng; cũng như những cá nhân hành động bảo vệ con người, bảo vệ tài sản trong những tình huống cấp thiết. Tuy nhiên, việc bảo vệ những chủ thể này hiện chưa được quy định rõ ràng. Khi việc thực hiện hành vi có thể gây ra một số hậu quả và bị truy cứu trách nhiệm, vậy khi đó ai sẽ là người mời và trả phí luật sư cho họ?
Trong một vụ án hành chính, sau khi cơ quan nhà nước thực hiện hành vi nhằm bảo vệ lợi ích công, nhưng hành vi đó lại gây ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân của một hoặc một số đối tượng, và cơ quan đó bị khởi kiện. Khi đó, theo quy định của Bộ luật tố tụng hành chính, người đứng đầu của cơ quan có quyền uỷ quyền cho cấp dưới làm người đại diện đương sự. Họ có quyền thuê luật sư nhưng vấn đề đặt ra ở đây là ai sẽ là chủ thể tiến hành mời và trả phí cho luật sư? Trong khi hiện nay, lĩnh vực hành chính được quyền thuê luật sư nhưng các quy định của pháp luật lại chưa có những quy định cụ thể về việc trích ngân sách để trả cho luật sư trong những trường hợp này. Mặt khác, trong lĩnh vực hình sự, khi các chủ thể thực hiện hành vi nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích công nhưng lại gây thiệt hại cho chính bản thân họ hoặc cho chủ thể khác.
Như vụ việc xảy ra tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, khi Bí thư và Chủ tịch xã biết có việc xảy ra tại trụ sở xã đã ngay lập tức có mặt tại hiện trường và bị các đối tượng khủng bố giết hại. Họ là những con người quả cảm, hết lòng vì sự nghiệp chung. Họ chính là những đối tượng phải được luật sư bảo vệ và Nhà nước có trách nhiệm chi trả chi phí thuê luật sư trong trường hợp này.
Khi xây dựng thể chế và các văn bản quy phạm pháp luật hướng tới những đối tượng này, luật sư công được kì vọng sẽ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người hành động vì lợi ích công cộng, lợi ích toàn dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể với vai trò là những người hành động phục vụ lợi ích công. Như vậy, trong hoạt đông tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người hành động vì lợi ích công cộng, lợi ích toàn dân rất cần thiết phải có sự tham gia của luật sư công. Việc hình thành thiết chế về luật sư công hứa hẹn sẽ đem lại một số thuận lợi nhưng cũng đi kèm thách thức đối với bộ máy nhà nước.
Những vấn đề đặt ra khi phát triển thiết chế luật sư công
Thứ nhất, về chi phí khi các luật sư công tham gia giải quyết các vụ việc hành chính. Hiện nay, chưa có cơ chế cụ thể về việc sử dụng ngân sách nhà nước cho hoạt động thuê luật sư tham gia tư vấn, bảo vệ trong các dự án, chính sách công hay việc khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính công. Các quy định này nếu có thì hiện mới ở mức khuyến khích các cơ quan nhà nước sử dụng nhưng lại bị cản trở bởi quy định về Luật Ngân sách nhà nước và chưa thể áp dụng vào thực tiễn.
Trên thực tế, cơ quan nhà nước, rất cần sử dụng dịch vụ luật sư. Nhưng cần phải xác định rõ chủ thể mời luật sư công là đương sự cá nhân hay người đại diện cho cơ quan quản lý nhà nước? Nếu đương sự là bị đơn, bị cáo mời thì cơ chế chi trả cho luật sư sẽ được thực hiện như thế nào? Có hay không việc cá nhân này phải tự mình chi trả? Nếu đương sự là người đại diện theo pháp luật của các đối tượng trên mời luật sư thì cần phải làm rõ chủ thể gửi đơn mời và thực hiện ký hợp đồng với luật sư là ai? Và ai sẽ là người thực hiện việc thanh toán chi phí cho luật sư? Vì vậy, việc có cơ chế cụ thể về mức phí để đưa luật sư công vào giúp các cơ quan nhà nước giải quyết các vấn đề về pháp luật là hết sức cần thiết.
Thứ hai, vấn đề về đầu vào của luật sư công. Tiêu chuẩn đầu vào của luật sư công sẽ sử dụng tiêu chuẩn đầu vào của luật sư nói chung hay cần quy định thêm những tiêu chuẩn riêng của nó? Việc một người phải tham gia đào tạo, tập sự để đủ điều kiện trở thành luật sư, sau đó phải đáp ứng thêm những tiêu chuẩn riêng để trở thành luật sư công có mang đến quá nhiều khó khăn cho những người muốn ứng tuyển hay không?
Thứ ba, những yếu tố về pháp lý liên quan đến vấn đề hình thành thiết chế luật sư công. Khi thiết chế luật sư công được xây dựng, thì có cần phải có trụ sở làm việc chính thức cho luật sư công hay không? Việc phân bổ chi phí cho việc vận hành của trụ sở đó sẽ được quy định và diễn ra như thế nào? Mỗi cơ sở cần có bao nhiêu luật sư công là hợp lý để không gây lãng phí ngân sách, nhân lực mà vẫn đảm bảo hiệu quả xử lý công việc?
Tôi cho rằng, việc lập trụ sở làm việc, chi phí vận hành trụ sở hay số lượng luật sư công tại mỗi chi nhánh không thực sự cần thiết. Theo quan điểm đã nêu ở trên, luật sư công được cơ quan nhà nước thuê về để xử lý các vấn đề pháp lý, việc hành nghề này không mang tính cố định mà có thể được thực hiện linh hoạt. Dù vậy, đây vẫn là vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng sao cho phù hợp với thực tế. Nhìn chung, tại một số quốc gia khác như Mỹ, Úc… luật sư công tại các nước chỉ xuất hiện bắt buộc trong các vụ án hình sự dựa trên cơ sở là Hiến pháp hoặc những quyền hiến định của con người. Theo đó, Nhà nước thành lập hệ thống các văn phòng luật sư công để cung cấp dịch vụ bào chữa cho những người không đủ khả năng thuê luật sư. Tuy nhiên, vấn đề trả công cho luật sư công vẫn là một vấn đề nan giải.
Thực tế bước đầu trong việc xây dựng và áp dụng thiết chế về luật sư công. Hiện nay, vấn đề về luật sư công ngày càng được nhà làm luật nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung quan tâm và mong muốn đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Tiêu biểu là Đề án số 02/ĐA-UBND của TP. Cần Thơ về thí điểm khuyến khích, thu hút đội ngũ luật sư tham gia vào các hoạt động của thành phố giai đoạn 2022 – 2025. Thực hiện đề án trên, UBND TP. Cần Thơ đã tổ chức ra mắt đội ngũ luật sư nhằm đưa luật sư vào cùng tham gia hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế; tham gia hỗ trợ, tư vấn giải quyết các vấn đề về tố tụng tại địa phương; đồng thời tham gia tư vấn pháp lý cho những dự án quan trọng, trọng điểm của địa phương. Đề án số 02/ĐA-UBND của TP. Cần Thơ được coi là đề án thí điểm đầu tiên tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long về thiết chế luật sư công.
Qua những phân tích trên, tôi ủng hộ hoạt động về luật sư công. Tuy nhiên, việc triển khai và đưa vấn đề vào thực tiễn, như phân tích còn một số vướng mắc. Để đảm bảo khách quan, vô tư và minh bạch, nhất thiết phải hướng đến việc xây dựng hệ thống quy định liên quan đến luật sư công một cách chặt chẽ, cụ thể và hoàn thiện nhất.
Luật sư, Thạc sĩ TRƯƠNG QUỐC HÒE
Đoàn luật sư TP. Hà Nội