Về tổ chức
Từ năm 1957 đến 1979, việc phát triển nghề luật sư ở Trung Quốc bị chững lại. Bộ Tư pháp bị giải thể và đội ngũ luật sư bị ngược đãi. Tới năm 1979, với chính sách mở cửa, các trường luật được mở lại, nghề luật sư được khuyến khích phát triển. Luật Luật sư năm 1996 được sửa đổi năm 2001, 2008 đã quy định về hoạt động của luật sư. Bộ Tư pháp ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, luật sư có thể hành nghề dưới ba hình thức: Công ty luật cá nhân, công ty luật hợp danh và công ty luật có vốn nhà nước.
Liên Đoàn Luật sư Trung Quốc là tổ chức nghề nghiệp luật sư ở cấp quốc gia. Ở địa phương có các Đoàn Luật sư địa phương. Mọi luật sư đều phải là thành viên của một Đoàn Luật sư địa phương. Vai trò của Đoàn Luật sư là bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của luật sư, xây dựng tiêu chuẩn nghề nghiệp và các nguyên tắc kỷ luật, tổ chức đào tạo nghề cho luật sư, giải quyết các khiếu nại liên quan đến luật sư…
Tuy nhiên, việc giám sát và hướng dẫn các công ty luật, luật sư và các hội nghề nghiệp của luật sư sẽ do các cơ quan quản lý tư pháp thực hiện. Các công ty luật dù dưới hình thức nào đều phải nộp báo cáo hoạt động hàng năm và đánh giá hoạt động của luật sư cho cơ quan quản lý tư pháp địa phương. Do đó, Đoàn Luật sư không thể được coi là tổ chức độc lập đại diện cho các luật sư thành viên của mình.

Ảnh minh hoạ.
Vai trò của luật sư trong vụ án hình sự và vụ án dân sự
Về hình sự, luật sư có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can bằng cách đưa ra chứng cứ và lý lẽ để chứng minh bị can vô tội hoặc không phạm tội nặng như nêu trong cáo trạng hoặc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ở giai đoạn điều tra, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, người bị tình nghi sẽ bị thẩm vấn sau khi bị bắt hoặc bị tạm giam và chỉ sau khi cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu tiên mới có quyền nhờ luật sư bảo vệ mình. "Luật sư phải có quyền tìm kiếm từ cơ quan điều tra về tội phạm bị nghi ngờ, và có thể gặp gỡ nghi can trong trại giam để điều tra vụ án" (Điều 96 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Tuy nhiên, cơ quan điều tra dường như không tự nguyện thực hiện nghiêm túc quy định này và thường xuyên cản trở và hạn chế sự tiếp cận của luật sư với khách hàng của mình và tiếp cận với chứng cứ. Khi vụ án được chuyển sang Viện Kiểm sát hoặc Tòa án, luật sư bào chữa có thể tư vấn, trích lục, sao chụp, kiểm tra kỹ thuật các tài liệu liên quan của vụ án và có thể gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo đang bị giam giữ (Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự). Trên thực tế, luật sư vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận với bị can và sao chụp hồ sơ của Viện Kiểm sát. Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, với sự cho phép của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án, luật sư cũng có thể thu thập chứng cứ từ người bị hại hoặc người có quan hệ thân thích với người bị hại nếu họ đồng ý. Trong những vụ án mà bị cáo là người nghèo, người mù, câm hoặc điếc hoặc là người chưa thành niên, hoặc là bị cáo trong vụ án có thể bị áp dụng hình phạt tử hình mà không có luật sư thì Tòa án sẽ chỉ định một luật sư có nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho họ (Điều 34 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Về dân sự, vai trò của luật sư trong các vụ án dân sự ít gặp rắc rối hơn so với trong các vụ án hình sự. Khi đại diện cho các bên đương sự trong vụ án, luật sư có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ và điều tra những vấn đề có liên quan đến vụ án. Trong thực tế, hầu hết luật sư đều tham gia vào nhiều loại vụ việc dân sự, đặc biệt là pháp luật doanh nghiệp. Ngoài ra, luật sư thường tham gia cả trong tố tụng và xét xử trọng tài những việc liên quan đến dân sự và doanh nghiệp.
Bảo vệ luật sư và các quyền của luật sư
Luật Luật sư quy định một số quyền của luật sư như sau :
- Điều 36 Luật Luật sư quy định nếu luật sư hoạt động với tư cách người đại diện theo ủy quyền hoặc người bào chữa thì quyền tranh luận hoặc bào chữa của luật sư được pháp luật bảo vệ.
- Điều 37 Luật Luật sư quy định các quyền nhân thân của luật sư trong khi hành nghề sẽ không bị xâm phạm.
Các quan điểm do luật sư trình bày tại tòa án không chịu sự truy tố của pháp luật, trừ những phát biểu làm nguy hại đến an ninh quốc gia, cố tình bôi nhọ người khác hoặc làm mất trật tự nghiêm trọng tại phiên tòa. Nếu luật sư bị giam hoặc bị bắt một cách hợp pháp vì bị nghi liên quan đến bất kỳ hành vi phạm tội nào trong quá trình tham gia tố tụng thì cơ quan thực hiện việc giam hoặc bắt phải thông báo cho người thân, công ty luật và Đoàn Luật sư của luật sư đó trong thời hạn 24 giờ sau khi thực hiện việc giam hoặc bắt đó.
Tuy nhiên, Luật Luật sư chú trọng nhiều hơn đến việc trừng phạt luật sư do vi phạm nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ chuyên môn của họ hơn là đến việc bảo vệ các quyền luật định của họ. Tương tự, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các quyền của luật sư nhưng không có bất kỳ điều luật nào quy định về hậu quả nếu những quyền này bị xâm phạm. Thực tế cho thấy luật sư ở Trung Quốc vẫn có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận thân chủ hoặc trong việc thực hiện các quyền luật định khác của mình.
Đào tạo nghề và kỷ luật luật sư
Về đào tạo nghề, để được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, sau khi tốt nghiệp đại học luật hoặc ngành tương tự, ứng viên phải nộp đơn đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề, thi đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia. Kỳ thi này do Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân Tối cao phối hợp tổ chức, trong đó Bộ Tư pháp đóng vai trò chính trong việc nhận đơn đăng ký dự thi, tiến hành kỳ thi và chấm điểm.
Một hội đồng gồm các học giả, những người làm công tác thực tiễn và các nhà nghiên cứu được thành lập để soạn các câu hỏi cho kỳ thi. Sau khi thi đỗ, ứng viên phải hoàn thành thực tập một năm tại một công ty luật. Công chức nhà nước không được phép hành nghề luật sư, tương tự, luật sư là đại biểu của Hội đồng nhân dân trong thời gian đương nhiệm cũng không được hành nghề. Luật sư nào trước đó là thẩm phán, kiểm sát viên thì không được đại diện cho bị can, bị cáo trong thời hạn 2 năm kể từ ngày rời đơn vị công tác.
Vấn đề kỷ luật luật sư được quy định ngắn gọn trong Luật Luật sư. Cơ quan quản lý tư pháp thuộc chính quyền địa phương (dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp) có trách nhiệm xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm pháp luật dưới hình thức phạt tiền, đình chỉ hoặc tước chứng chỉ hành nghề. Chế tài có thể được áp dụng đối với cá nhân luật sư hoặc đối với công ty luật.
NGÔ CƯỜNG