/ Luật sư - Bạn đọc
/ Mở phiên tòa xét xử Nguyễn Thị Thanh Nhàn cùng 35 bị cáo: Quyền bào chữa của bị cáo đang bị truy nã được thực hiện như thế nào?

Mở phiên tòa xét xử Nguyễn Thị Thanh Nhàn cùng 35 bị cáo: Quyền bào chữa của bị cáo đang bị truy nã được thực hiện như thế nào?

01/12/2022 10:13 |

(LSVN) - Với chính sách khoan hồng, nhân đạo, cùng tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam đã có quy định về trường hợp "cử người bào chữa" cho bị can, bị cáo trong một số trường hợp đặc biệt.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, TAND TP. Hà Nội đã ra quyết định ngày 21/12 tới sẽ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tiến bộ - viết tắt là Công ty AIC) và 35 bị cáo trong vụ án xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Công ty AIC và các đơn vị có liên quan.

Theo đó, tám bị cáo bỏ trốn, bị truy nã như: Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Trần Mạnh Hà,... đều được Tòa án chỉ định Luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những bị cáo này tại phiên tòa.

Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho rằng, việc bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn bỏ trốn đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã toàn quốc và quyết định truy nã quốc tế nhưng không có kết quả.

Đồng thời, Cơ quan điều tra cũng đã phát thư kêu gọi bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn ra trình diện hoặc đầu thú để hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, thực hiện quyền bào chữa theo quy định; trường hợp không ra đầu thú coi như từ bỏ quyền bào chữa và bị truy tố, xét xử.

Vậy, trong trường hợp này, quyền bào chữa của bị cáo đang bị truy nã được thực hiện như thế nào? 

Cần có văn bản hướng dẫn để làm rõ các trường hợp kết luận điều tra, truy tố vắng mặt đối với bị can đang bị truy nã

Liên quan đến vấn đề này, theo Luật sư, Tiến sĩ Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, với bị cáo bỏ trốn, bị truy nã và bị xét xử vắng mặt thì trong một số trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa. 

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trường hợp bị cáo bỏ trốn, bị truy nã và chưa có kết quả truy nã thì Tòa án có thể xét xử vắng mặt đối với bị cáo.

Cụ thể Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa như sau: Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa. Nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.

Khoản 2, Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp: Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả; Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận; nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.

Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam đã có quy định rất rõ ràng về việc xét xử vắng mặt đối với bị cáo. Thực tiễn tố tụng thì không ít trường hợp Tòa án đã xét xử vắng mặt đối với các bị cáo nhưng chủ yếu là các trường hợp bị cáo xin xét xử vắng mặt, số ít trường hợp bị cáo bị truy nã sau khi truy tố và việc truy nã chưa có kết quả, các tình tiết trong vụ án đã được làm sáng tỏ thì Tòa án cũng sẽ xét xử vắng mặt.

"Tuy nhiên trong vụ án này, điều đặc biệt là bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn và một số đồng phạm khác bị kết luận điều tra và bị truy tố vắng mặt (khi đang bị truy nã) và đến nay là sẽ xét xử vắng mặt nếu như không trình diện (đầu thú) hoặc không bị bắt giữ trước ngày mở phiên tòa.

Theo quy định tại Điều 229 và Điều 247 Bộ luật Tố tụng hình sự, trong giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố nếu bị can bỏ trốn thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát sẽ tiến hành truy nã và tạm đình chỉ giải quyết vụ án đối với bị can đó (sẽ tiếp tục giải quyết đối với các bị can khác trong vụ án có đồng phạm). Khi nào bắt được bị can sẽ tiếp tục phục hồi điều tra để tiến hành điều tra, truy tố đối với bộ bị can đó. Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay gần như chưa có trường hợp nào cơ quan tố tụng kết luận điều tra và truy tố đối với bị can đang bị truy nã. Vấn đề này pháp luật quy định cũng chưa rõ ràng, chưa có hướng dẫn cụ thể. Có lẽ sau vụ án này, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ có nghị quyết để hướng dẫn đối với vấn đề này nhằm thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Cần có văn bản hướng dẫn để làm rõ các trường hợp kết luận điều tra, truy tố vắng mặt đối với bị can đang bị truy nã", Luật sư Cường phân tích.

Quyền bào chữa của bị cáo đang bị truy nã được thực hiện như thế nào? 

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trong một số trường hợp thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo. Quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những quyền cơ bản bắt đầu từ khi bị buộc tội cho đến khi vụ án hình sự kết thúc. Quyền bào chữa là quyền được đưa ra quan điểm, ý kiến của mình đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, được quyền khai, trình bày ý kiến của mình đối với các vấn đề phải tình tiết của vụ án, được quyền cung cấp chứng cứ, được quyền khiếu nại đối với các quyết định tố tụng.

Pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận rất nhiều quyền của bị can, bị cáo, trong đó có quyền bào chữa, quyền được trình bày ý kiến, lời khai của mình đối với các chứng cứ buộc tội, quyền được khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Mặc dù, pháp luật quy định bị can, bị cáo không có nghĩa vụ phải đưa ra chứng cứ để chống lại mình, không có nghĩa vụ buộc phải nhận mình có tội nhưng pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam cũng quy định rất rõ về việc bị can, bị cáo có quyền trình bày, tranh luận tại phiên tòa, có quyền nói lời sau cùng, có quyền đưa ra các ý kiến, yêu cầu, xuất trình cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh mình không phạm tội hoặc chứng minh các yếu tố quyết định đến mức hình phạt...

Nếu bị can, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã thì gần như không thực hiện được các quyền mà pháp luật đã ghi nhận trong đó có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Quyền tự bào chữa là phải thực hiện trực tiếp, phải liên hệ trực tiếp đưa ra ý kiến quan điểm, xuất trình tài liệu đồ vật với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu bị can, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã phải bị xét xử vắng mặt thì không thể thực hiện được quyền này. Còn đối với quyền nhờ người khác bào chữa thì bị cáo cũng phải thể hiện ý chí của mình với người bào chữa hoặc thông qua người thân để mời người bào chữa. Người bào chữa có thể là Luật sư hoặc người khác đủ điều kiện làm người bào chữa theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Nếu không xác định được bị cáo đang ở đâu thì bản thân bị cáo và người thân bị cáo không thể thực hiện được quyền nhờ người khác bào chữa theo quy định pháp luật. 

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Như vậy, với chính sách khoan hồng, nhân đạo, cùng tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam còn quy định về trường hợp "cử người bào chữa" cho bị can, bị cáo trong một số trường hợp đặc biệt. Với những bị can bị cáo là người chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất tinh thần mà không thể tự bào chữa hoặc là người bị xét xử ở khung hình phạt có hình phạt cao nhất mà 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình thì pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa, khi đó nếu bị can, bị cáo hoặc người thân của bị can bị cáo không nhờ người khác bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ cử người bào chữa cho bị can bị cáo và nhà nước sẽ chi trả thù lao và chi phí cho những người bào chữa này theo quy định của pháp luật.

Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định trên: Đoàn Luật sư phân công tổ chức hành nghề Luật sư cử người bào chữa; Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

Trong vụ việc này, theo nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, rất nhiều bị cáo bị truy tố ở khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Bởi vậy, các bị cáo này đều thuộc trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và phải có người bào chữa buộc tại phiên tòa. Nếu quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo không nhờ người khác bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải cử người bào chữa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật.

Chính vì vậy, trong vụ án này đối với các bị cáo đang bị truy nã thì Tòa án sẽ cử người bào chữa cho tất cả các bị cáo này để đảm bảo quyền được bào chữa theo quy định tại Điều 61 và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người bào chữa theo chỉ định sẽ đăng ký bào chữa với tòa án, sẽ sao chụp hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ, tham dự phiên tòa để đưa ra quan điểm về đánh giá chứng cứ. Đồng thời sử dụng chứng cứ, đưa ra những lập luận để bào chữa theo hướng gỡ tội hoặc giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định của pháp luật. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải chi trả, thanh toán thù lao và chi phí cho những người bào chữa theo chỉ định theo quy định của pháp luật.

TIẾN HƯNG