Ảnh minh họa.
Một số đặc trưng của hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất cầm quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật, các quan hệ pháp luật như chủ thể, khách thể, nội dung quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý,… nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đường lối của Đảng ta là quan điểm chính trị, là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không thay thế vai trò của pháp luật, nhất là trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay. Đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước có tính độc lập tương đối bởi sự phân định rõ vị trí, chức năng của Đảng và Nhà nước trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Thể chế hóa không phải là việc sao chép máy móc những nội dung trong đường lối của Đảng thành pháp luật. Hoạt động lập pháp, thi hành và bảo vệ pháp luật là những hoạt động của Nhà nước, Đảng không thể làm thay Nhà nước trong các hoạt động đó.
Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật không đơn thuần chỉ là phương thức xây dựng pháp luật của Nhà nước. Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật là thống nhất ý chí của Đảng với ý chí xã hội mà Nhà nước đại diện; bảo đảm cho Đảng xác lập và thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội. Cụ thể hóa những vấn đề có tính quy luật, định hướng, mục tiêu, quan điểm, những vấn đề chung về phát triển đất nước, phát triển xã hội trong đường lối, chủ trương của Đảng thành các quy tắc xử sự pháp luật điều chỉnh hành vi, hoạt động cụ thể của cá nhân, tổ chức. Bằng sự cụ thể hóa đó, hệ thống pháp luật được xây dựng bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được thực hiện chính xác, kịp thời, thống nhất trong toàn quốc, có hiệu lực điều chỉnh đối với mọi cá nhân, tổ chức. Có thể nói, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật là hoạt động mang tính chính trị - pháp lý, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện bằng cách cụ thể hóa, thể hiện trong chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật, bằng các hình thức văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao và thống nhất, đồng bộ với nhau, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, xây dựng được một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, thể hiện thống nhất ý chí của Đảng và nhân dân, có tính khoa học và nhân văn, khách quan và thực tiễn, hiệu lực và hiệu quả.
Là công cụ quản lý Nhà nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đốì lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trương hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sổng nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế Nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống pháp luật có đặc trưng của pháp luật XHCN, xác lập và cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh; là công cụ bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; là phương tiện thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Trong đó, pháp luật về dân sự, kinh tế với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu với các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng; quy định quyền, nghĩa vụ về tài sản, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác nhằm bảo đảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đồng bộ hóa các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm.
Bảo đảm phát huy và thể hiện sâu sắc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành công cụ quan trọng đối với hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: dân chủ, công bằng, bình đẳng - những yếu tố cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hóa các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(1). Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý Nhà nước, nhất là trong xây dựng thực thi chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao trong những năm vừa qua. Sự tham gia của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý Nhà nước đã được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên,... cũng đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội tham gia công việc quản lý Nhà nước, thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
Kế thừa và tiếp nối truyền thống văn hoá pháp lý của đất nước ta
Trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới mang tính bước ngoặt, với sự tác động nhiều mặt của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng ta vừa kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bổ sung, phát triển các giá trị mới, như tự do, dân chủ, hiện đại, văn minh... Những đặc tính, phẩm chất cơ bản của văn hóa và con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại có ý nghĩa rất tích cực, cần được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ, chuyển hóa thành nguồn lực nội sinh, nền tảng tinh thần, “sức mạnh mềm” của đất nước để hướng tới tương lai tươi đẹp.
Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 09/11/2022 về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”đặt ra nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo… tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Như vậy, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật cần được hoàn thiện góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội, củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng bước hội nhập với thế giới.
Giải pháp đột phá định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn mới
(1) Đẩy mạnh dân chủ hóa, khoa học hóa từ quy trình xây dựng luật. Mỗi dự án luật phải là công trình khoa học nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn, cần quy tụ trí tuệ của mọi người trong xã hội, không để xảy ra tình trạng ngồi phòng lạnh làm luật. Cần cải tiến quy trình làm luật để có được dự án luật minh bạch, thật sự phản ánh lợi ích của người dân.
(2) Để có một hệ thống pháp luật tốt thì đường lối chính sách của Đảng phải đúng đắn. Song song với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, với đặc điểm tại nước ta, Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền.
Do vậy đặt ra vấn đề: cần phải tiếp tục đổi mới tư duy chính trị, đường lối chính sách, từ đó mới làm cho hệ thống pháp luật thêm hoàn thiện. Hướng tới mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới cách ra nghị quyết của Đảng, tiếp tục có những chính sách mới cho công cuộc đổi mới giai đoạn mới. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là yêu cầu số một được đặt ra hiện nay, để khi đường lối, chính sách của Đảng được thảo luận, thông qua, nó bắt buộc phải được thể hiện, thể chế một cách nghiêm túc. Quốc hội không thể đưa ra một đạo luật trái hoặc không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng đã được thông qua.
Để tận dụng và phát huy vị trí của cơ quan lập pháp trong tương tác về đường lối chính sách, chúng tôi kiến nghị Đảng nên có quy trình 02 bước trong ra chủ trương: Trước tiên, Đảng đưa định hướng trước, để các đại biểu Quốc hội thảo luận, Đảng lắng nghe; sau khi Đảng lắng nghe ý kiến của các đại biểu Quốc Hội về định hướng chính sách, căn cứ vào ý chí của nhân dân thông qua đại biểu Quốc hội, Đảng điều chỉnh chủ trương của mình và tiến hành thông qua; khi đã thông qua, thì Quốc hội phải thực hiện theo.
(3) Cần tạo không gian pháp lý thống nhất. Việc áp dụng pháp luật phải thống nhất trên phạm vi cả nước, hạn chế việc các địa phương ban hành các chính sách con. Để làm được vậy, luật cần phải được áp dụng trực tiếp, hạn chế tối đa việc giao Chính phủ và thậm chí là các bộ được quy định chi tiết.
Bên cạnh đó, cần hạn chế việc xây dựng hệ thống luật khung, luật ống như hiện nay, thay vào đó, cân nhắc xây dựng các luật nhỏ. Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay đều là các luật to, điều này có 01 số hệ quả như: (a) làm lâu (quy trình làm 1 đạo luật thường trong 2, 3 kỳ họp) dẫn đến việc luật vừa ra đã sửa; (b) luật to quy định nhiều điều, dẫn đến không bao quát được hết, dẫn đến việc áp dụng khó. Nếu xây dựng luật nhỏ, mỗi đạo luật chỉ điều chỉnh 01 quan hệ, có những thuận tiện như: nhanh; xử lý kịp thời; sửa nhanh nếu cần sửa.
Cũng cần lưu ý rằng, vấn đề hoạch định chính sách làm luật để xây dựng luật nhỏ là rất khó khăn: chọn quan hệ nào để xử lý, đưa thành luật nhỏ; sự tương tác giữa các luật phải lớn.
(3) Phát huy vai trò điều chỉnh của pháp luật. Cần chú ý đến nguyên tắc người dân được quyền làm những gì mà pháp luật không cấm.
Đây là nguyên tắc cơ bản, nòng cốt nhất của xây dựng Nhà nước pháp quyền - đó là công dân có quyền, sự điều chỉnh, can thiệp của pháp luật chỉ nên có mức độ, để có không gian sáng tạo trong thực tiễn áp dụng. Chú trọng xây dựng cơ sở pháp lý cho cơ quan trọng tài, tòa án và hoàn thiện pháp luật tố tụng để mở cho những nguyên tắc: áp dụng pháp luật tương tự, án lệ, tập quán, lẽ công bằng… nhằm tạo không gian cho các bên thỏa thuận. Hạn chế việc hình sự hóa hay hành chính hóa quan hệ dân sự.
(4) Hoàn thiện pháp luật về tổ chức xây dựng bộ máy cần theo định hướng: cải tổ lại luật về tổ chức bộ máy theo tiêu chí tinh gọn; chuyển từ tư duy quy định quyền của bộ máy sang tư duy quy định nghĩa vụ, chuyển từ vai trò quản lý sang vai trò phục vụ, chuyển từ mô hình quản lý Nhà nước sang mô hình quản trị quốc gia; quy định thủ tục kiểm soát quyền lực chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước.
(5) Trong lĩnh vực kinh tế, chú trọng hoàn thiện pháp luật về sở hữu, để tất cả các hình thức sở hữu hợp pháp là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Đặc biệt là sở hữu trí tuệ trong kỷ nguyên chuyển đổi số; hoàn thiện khung pháp lý cho từng loại thị trường; điều kiện đối với các chủ thể tham gia thị trường; quy tắc thị trường nhất là vấn đề quản trị doanh nghiệp, quan hệ với Nhà nước; pháp luật về giải quyết tranh chấp và pháp luật bảo vệ trật tự thị trường (cạnh tranh, xử lý nghiêm các vi phạm, lừa đảo).
(6) Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, một trong ba nhiệm vụ chiến lược của Đại hội XIII là đào tạo được đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Do đó, cần hoàn thiện pháp luật giáo dục và đào tạo nhất là đào tạo pháp luật để cung cấp nguồn cán bộ có năng lực phục vụ hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật phát triển. Cần lành mạnh hóa vấn đề văn hóa, đạo đức xã hội ở Việt nam và được phản ánh bằng luật pháp. Hiện nay, chúng ta mới chú ý vấn đề bạo lực gia đình, còn bạo lực xã hội thì chưa được chú ý đến mặc dù vấn đề bạo lực xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức. Do đó, xây dựng pháp luật cần đặt trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
(7) Tổ chức thi hành pháp luật cần gắn với một loạt biện pháp như: việc cụ thể hóa pháp luật và áp dụng pháp luật phải đúng và chính xác trên cơ sở tôn trọng Hiến pháp và luật; phổ biến, tuyên truyền pháp luật rõ ràng, cụ thể, tới từng người, từng chủ thể; cung cấp các nguồn lực phù hợp cho thi hành pháp luật, nhất là nguồn lực cho các cơ quan tư pháp; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm trật tự, kỷ cương.
Tài liệu tham khảo:
|
TS. NGUYỄN HỒNG SƠN
Phó Vụ trưởng Vụ địa phương 1, Văn phòng Trung ương Đảng