Ảnh minh họa.
1. Hình thức trả hồ sơ điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, tùy theo từng giai đoạn mà thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ được quy định khác nhau.
Cụ thể trong giai đoạn truy tố, Viện Kiểm sát có quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi phát hiện thấy hồ sơ vụ án còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà Viện Kiểm sát không thể tự mình bổ sung được. Đó là việc thiếu chứng cứ quan trọng để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Việc thiếu chứng cứ đó, Viện Kiểm sát, Tòa án không bổ sung được cho nên buộc phải trả hồ sơ để điều tra.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp: Khi thiếu những chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được, qua trao đổi với Kiểm sát viên vẫn không thể khắc phục kịp thời;
Trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thông qua việc xét hỏi, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa nếu phát hiện thiếu những chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện Kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng,… mà không thể khắc phục tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận và ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện Kiểm sát.
Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm thế nào là trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tại Điều 280 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán; Thông tư liên tịch số 02/2017 hướng dẫn các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại Điều 280 và khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Hội đồng xét xử quyết định trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa.
2. Hạn chế, vướng mắc
Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung còn tồn tại những mặt hạn chế, vướng mắc như sau:
- Trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung không được Viện kiểm sát chấp nhận hoặc Viện Kiểm sát không thể đáp ứng do không đúng căn cứ hoặc yêu cầu điều tra không khả thi, dẫn đến kéo dài thời gian tố tụng;
- Trường hợp xác định không đúng tội danh của các bị can, bị cáo nên vụ án phải bị trả lại nhiều lần, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Sự phối hợp giữa Tòa án với Viện Kiểm sát và Cơ quan điều tra có lúc chưa nhịp nhàng, cứng nhắc làm ảnh hưởng đến thời gian cũng như kết quả điều tra bổ sung chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung trong hoạt động xét xử
Thứ nhất, là tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
Hiện tại, BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2017 đang có hiệu lực thi hành, đã khắc phục được phần lớn vướng mắc, bất cập về pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng pháp luật còn một số vướng mắc, bất cập trong chế định này. Do đó, chúng tôi đưa ra một số ý kiến khác để nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:
- Đối với trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án (khoản 3 Điều 280 BLTTHS năm 2015). Quy định này không thật chính xác vì mâu thuẫn với quy định tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm 2015. Tòa án còn có quyền tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nếu như Viện Kiểm sát không bổ sung được các yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu bổ sung chứng cứ của Tòa án. Vì vậy, điều luật này phải quy định là: “Trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Tòa án tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án hoặc tiến hành xét xử vụ án”.
- Đề nghị quy định trường hợp sau 02 lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà Viện Kiểm sát cùng cấp không đáp ứng được các yêu cầu điều tra bổ sung thì tùy từng trường hợp mà Tòa án có quyết định phù hợp, chẳng hạn Tòa thấy rằng không có cơ sở chắc chắn để kết tội bị cáo thì tuyên người này không phạm tội do Viện Kiểm sát truy tố hoặc trường hợp chỉ có căn cứ buộc bị cáo phạm một tội mà không có cơ sở buộc tội khác thì chỉ tuyên bị cáo phạm một tội,… như vậy mới bảo đảm công lý, công bằng và đảm bảo quyền con người.
- Tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm 2015 quy định: Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện Kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện Kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Quy định như vậy làm giảm trách nhiệm buộc tội của Viện Kiểm sát và việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung sẽ khó được Viện Kiểm sát chấp nhận. Tại vì Viện Kiểm sát cho rằng luật đã quy định Tòa án có quyền bổ sung chứng cứ thì Tòa án thực hiện quyền đó. Từ đó sẽ gây khó khăn rất nhiều trong việc giải quyết vụ án và mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát cũng bị ảnh hưởng.
- Đề nghị có sự thống nhất áp dụng pháp luật là thụ lý mới hay thụ lý lần hai đối với trường hợp Tòa án thụ lý lại sau khi trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát điều tra bổ sung, nhưng Viện Kiểm sát đã thay đổi quan điểm truy tố từ 02 tội danh thành 01 tội danh đối với bị can, bị cáo?
- Thống nhất trong việc tại giai đoạn điều tra, truy tố, bị hại không yêu cầu khoản bồi thường nên cơ quan tiến hành tố tụng không thu thập các chứng cứ và bị hại cũng không cung cấp chứng cứ. Tại phiên tòa, bị hại lại yêu cầu bồi thường khoản thiệt hại và cũng không cung cấp chứng cứ thì Hội đồng xét xử cần giải quyết như thế nào?
Thứ hai, nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng và Luật sư.
Một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải có nhận thức đúng đắn, thống nhất về vai trò, ý nghĩa của hoạt động điều tra bổ sung. Cũng như có ý thức trong việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thường xuyên cập nhật các văn bản mới có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt là nghiên cứu và nắm vững các điều luật được quy định trong BLHS và BLTTHS về các vấn đề như chứng cứ, thủ tục tố tụng, trả hồ sơ điều tra bổ sung,…
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, đề xuất xây dựng án lệ.
Trong những năm qua, hệ thống Tòa án đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, nỗ lực triển khai nhiều biện pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm đã và đang diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng, tính chất mức độ hành vi nguy hiểm. Thông qua việc giải quyết các vụ án, nghiên cứu đề xuất phát triển án lệ và kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự là một hình thức cụ thể trong việc áp dụng pháp luật, trong đó, Luật sư có thể kiến nghị Viện kiểm sát yêu cầu nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Việc thực hiện trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết vụ án được kịp thời, triệt để toàn diện và khách quan. Tuy vậy, nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không căn cứ theo quy định của pháp luật sẽ làm cho quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài gây lãng phí thời gian, công sức tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
PHẠM MINH ĐÔ
Tòa án Quân sự Quân khu 7