Ảnh minh họa.
Những sai phạm nghiêm trọng của ông Nguyễn Đăng Thuyết, Tổng Giám đốc Công ty Thành An
Bài viết phản ánh quá trình Công ty Thành An Hà Nội lập hồ sơ dự thầu và tham gia đấu thầu tại Dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và những sai phạm nghiêm trọng của Công ty Thành An làm tham gia đấu thầu 06 gói thầu tại Dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai.
Các gói thầu bao gồm:
(1) Gói thầu số 64: Giường điều trị chuyên dụng;
(2) Gói thầu số 65: Máy gây mê kèm thở, máy thở;
(3) Gói thầu số 67: Trang thiết bị xạ trị;
(4) Gói thầu số 71: Dụng cụ phẫu thuật ;
(5) Gói thầu số 74: Thiết bị chẩn đoán và phẫu thuật nội soi;
(6) Gói thầu số 76: Hệ thống chụp cộng hưởng từ.
Theo đó, Công ty Thành An Hà Nội được thành lập theo Giấy CNĐKDN Công ty TNHH hai thành viên trở lên, số 010114114 ngày 19/6/2001, do Sở KH&ĐT thành phố Hà Nội cấp.
Thời điểm thành lập và thời điểm tham gia đấu thầu tại Dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, ông Nguyễn Đăng Thuyết là Tổng Giám đốc, người đại diện pháp luật.
Hiện nay Công ty vẫn đang hoạt động theo Giấy CNĐKDN TNHH hai thành viên trở lên đăng ký thay đổi lần thứ 15 ngày 05/8/2021, do bà Ngô Thị Quỳnh Hoa là Tổng Giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty; Vốn điều lệ 400 tỉ đồng; Ngành nghề kinh doanh: Buôn bán trang thiết bị, dụng cụ y tế; buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng; buôn bản thiết bị điện tử, tin học; buôn bán hóa chất; phân loại trang thiết bị y tế,...
Liên quan đến Dự án Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, cơ quan điều tra Bộ Công an xác định, Công ty Thành An Hà Nội làm “Quân xanh” tham gia đấu thầu tại gói thầu số 64, 65, 67, 71, 74 và trúng thầu hộ Công ty AIC gói thầu số 71, 74.
Ông Nguyễn Đăng Thuyết, nguyên Giám đốc là người ký các hồ sơ dự thầu; hiện Công ty không xác định được nhân viên chuẩn bị các hồ sơ dự thầu nêu trên.
Về gói thầu số 71, ngày 04/10/2014, Phan Huy Anh Vũ, Giám đốc đại diện Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bà Trần Thị Thành An, Phó Giám đốc đại diện Công ty Thành An Hà Nội ký hợp đồng về việc cung cấp, lắp đặt thiết bị số 79/2014/HĐTB-BVĐN (52 thiết bị y tế), trị giá 49,25 tỉ đồng.
Từ ngày 12/12/2014 đến ngày 14/12/2016, Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai thanh toán cho Công ty Thành An số tiền là 49.249.987.000 đồng. Để cung cấp thiết bị cho gói thầu số 71, Công ty Thành An mua 34 thiết bị y tế của Công ty Phúc Hưng và 18 thiết bị y tế của Công ty TCI, gồm:
- Ngày 01/4/2015, bà Trần Thị Thanh An, Phó Giám đốc đại diện Công ty Thành An (Bên mua) và Nguyễn Thị Tích, Phó Tổng Giám đốc đại diện Công ty Phúc Hưng (Bên bán) ký Hợp đồng mua bán thiết bị y tế số 0104/TA-PH- DNAI/15, trị giá 20.239.574.901 đồng
- Ngày 09/12/2014, bà Trần Thị Thanh An, Phó Giám đốc đại diện Công ty Thành An (Bên mua) và Hoàng Thị Thúy Nga, Giám đốc đại diện Công ty TCI (Bên bán) ký Hợp đồng mua bán thiết bị y tế số 041/TB-TNT-HN/TCI-DNAM/14, trị giá 28.025.425.099 đồng.
Về gói thầu số 74, ngày 04/10/2014, Phan Huy Anh Vũ, Giám đốc đại diện Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bà Trần Thị Thành An, Phó Giám đốc đại diện Công ty Thành An Hà Nội ký hợp đồng về việc cung cấp, lắp đặt thiết bị số 82/2014/HĐTB-BVĐN (17 thiết bị y tế), trị giá 47,35 tỉ đồng (trước khi làm tròn là 47.349.027.000 đồng).
Từ ngày 12/12/2014 đến ngày 14/12/2016, Bệnh viện thanh toán cho Công ty Thành An số tiền là 47.349.027.000 đồng. Để cung cấp thiết bị cho gói thầu số 74, Công ty Thành An mua 09 thiết bị y tế của Công ty Phúc Hưng và 08 thiết bị y tế của Công ty TCI, gồm:
- Ngày 02/4/2015, bà Trần Thị Thanh An, Phó Giám đốc đại diện Công ty Thành An (Bên mua) và Nguyễn Thị Tích, Phó Tổng Giám đốc đại diện Công ty Phúc Hưng (Bên bán) ký Hợp đồng mua bán thiết bị y tế số 0204/TA-PH DNAI/15, trị giá 22.103.055.000 đồng;
Đối với Nguyễn Đăng Thuyết, Tổng Giám đốc Công ty Thành An Hà Nội, lực lượng chức năng xác định, người này đã thông đồng, cấu kết với Công ty AIC để làm nhà thầu “Quân xanh” tại 04 gói thầu, đứng tên thay Công ty AIC để trúng thầu gói thầu số 71, 74. Mục đích là để được bán hàng vào Dự án hưởng lợi số tiền 1.931.014.139 đồng, giúp sức cho Nguyễn Thị Thanh Nhàn hưởng lợi bất chính, gây thiệt hại cho nhà nước 41.259.531.656 đồng.
Có hành vi “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”
Điều 89, Luật Đấu thầu năm 2013 quy định về các hành vi bị cấm trong đấu thầu cụ thể như sau: 1. Đưa, nhận, môi giới hối lộ. 2. Lợi dụng chức vụ quyền hạn để can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động đấu thầu. 3. Thông thầu, bao gồm các hành vi sau đây: a) Thỏa thuận về việc rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu; b) Thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu; c) Thỏa thuận về việc từ chối cung cấp hàng hóa, không ký hợp đồng thầu phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác cho các bên không tham gia thỏa thuận. 4. Gian lận, bao gồm các hành vi sau đây: a) Trình bày sai một cách cố ý hoặc làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu của một bên trong đấu thầu nhằm thu được lợi ích tài chính hoặc lợi ích khác hoặc nhằm trốn tránh bất kỳ một nghĩa vụ nào; b) Cá nhân trực tiếp đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, thẩm định kết quả lựa chọn danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư cố ý báo cáo sai hoặc cung cấp thông tin không trung thực làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; c) Nhà thầu, nhà đầu tư cố ý cung cấp các thông tin không trung thực trong hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư. 5. Cản trở, bao gồm các hành vi sau đây: a) Hủy hoại, lừa dối, thay đổi, che giấu chứng cứ hoặc báo cáo sai sự thật; đe dọa, quấy rối hoặc gợi ý đối với bất kỳ bên nào nhằm ngăn chặn việc làm rõ hành vi đưa, nhận, môi giới hối lộ, gian lận hoặc thông đồng đối với cơ quan có chức năng, thẩm quyền về giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; b) Các hành vi cản trở đối với nhà thầu, nhà đầu tư, cơ quan có thẩm quyền về giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. 6. Không bảo đảm công bằng, minh bạch, bao gồm các hành vi sau đây: a) Tham dự thầu với tư cách là nhà thầu, nhà đầu tư đối với gói thầu, dự án do mình làm bên mời thầu, chủ đầu tư hoặc thực hiện các nhiệm vụ của bên mời thầu, chủ đầu tư; b) Tham gia lập, đồng thời tham gia thẩm định hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu đối với cùng một gói thầu, dự án; c) Tham gia đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất đồng thời tham gia thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư đối với cùng một gói thầu, dự án; d) Là cá nhân thuộc bên mời thầu, chủ đầu tư nhưng trực tiếp tham gia quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư hoặc tham gia tổ chuyên gia, tổ thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư hoặc là người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ đầu tư, bên mời thầu đối với các gói thầu, dự án do cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột đứng tên dự thầu hoặc là người đại diện theo pháp luật của nhà thầu, nhà đầu tư tham dự thầu; đ) Nhà thầu tham dự thầu gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp do mình cung cấp dịch vụ tư vấn trước đó; e) Đứng tên tham dự thầu gói thầu thuộc dự án do chủ đầu tư, bên mời thầu là cơ quan, tổ chức nơi mình đã công tác trong thời hạn 12 tháng, kể từ khi thôi việc tại cơ quan, tổ chức đó; g) Nhà thầu tư vấn giám sát đồng thời thực hiện tư vấn kiểm định đối với gói thầu do mình giám sát; h) Áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư không phải là hình thức đấu thầu rộng rãi khi không đủ điều kiện theo quy định của Luật này; i) Nêu yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa trong hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế; k) Chia dự án, dự toán mua sắm thành các gói thầu trái với quy định của Luật này nhằm mục đích chỉ định thầu hoặc hạn chế sự tham gia của các nhà thầu. 7. Tiết lộ, tiếp nhận những tài liệu, thông tin sau đây về quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 7 và điểm e khoản 8 Điều 73, khoản 12 Điều 74, điểm i khoản 1 Điều 75, khoản 7 Điều 76, khoản 7 Điều 78, điểm d khoản 2 và điểm d khoản 4 Điều 92 của Luật này: a) Nội dung hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu trước thời điểm phát hành theo quy định; b) Nội dung hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, sổ tay ghi chép, biên bản cuộc họp xét thầu, các ý kiến nhận xét, đánh giá đối với từng hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trước khi công khai danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; c) Nội dung yêu cầu làm rõ hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất của bên mời thầu và trả lời của nhà thầu, nhà đầu tư trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trước khi công khai kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; d) Báo cáo của bên mời thầu, báo cáo của tổ chuyên gia, báo cáo thẩm định, báo cáo của nhà thầu tư vấn, báo cáo của cơ quan chuyên môn có liên quan trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trước khi công khai kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; đ) Kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trước khi được công khai theo quy định; e) Các tài liệu khác trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư được đóng dấu mật theo quy định của pháp luật. 8. Chuyển nhượng thầu, bao gồm các hành vi sau đây: a) Nhà thầu chuyển nhượng cho nhà thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá hợp đồng đã ký kết; b) Chủ đầu tư, tư vấn giám sát chấp thuận để nhà thầu chuyển nhượng công việc thuộc trách nhiệm thực hiện của nhà thầu, trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê khai trong hợp đồng. 9. Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn tới tình trạng nợ đọng vốn của nhà thầu. |
Hành vi của Nguyễn Đăng Thuyết đã vi phạm quy định tại Điều 12, Luật Đấu thầu 2005, nay là Điều 89, Luật Đấu thầu năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thị hành, có dấu hiệu phạm tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại khoản 3, Điều 222, Bộ luật Hình sự năm 2015.
Khoản 3, Điều 222, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" như sau: "3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm". |
Sau khi bị phát hiện hành vi, Nguyễn Đăng Thuyết (thường trú tại Căn hộ số 2101, tầng 21, tòa nhà D2 Giảng Võ, phường Giảng Võ, TP. Hà Nội) đã không hợp tác và bỏ trốn.
Một số thủ tục tố tụng liên quan đến truy nã
Ngày 07/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra Quyết định truy nã toàn quốc số 12/QĐTN-CSKT-P9; đồng thời đã kêu gọi bị can ra đầu thú để hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước; hợp tác điều tra để đảm bảo quyền tự bào chữa theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; trong trường hợp không ra trình diện hoặc đầu thú, coi như từ bỏ quyền tự bào chữa và sẽ bị điều tra, truy tố và xét xử.
Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định rõ việc bắt người đang bị truy nã được thực hiện theo quy định sau: Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Khoản 3 Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định khi bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can.
Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai.
Hiện nay, pháp luật không quy định thời gian có hiệu lực của lệnh truy nã, tuy nhiên có thể nhận biết thời gian này nhờ thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, lệnh truy nã cũng sẽ hết hiệu lực khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này được quy định cụ thể tại khoản 2, Điều 27, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
ĐOÀN TÂN