/ Trao đổi - Ý kiến
/ Một số vấn đề pháp lý về cho vay ngang hàng của các Công ty Fintech ở Việt Nam

Một số vấn đề pháp lý về cho vay ngang hàng của các Công ty Fintech ở Việt Nam

14/06/2025 08:23 |11 ngày trước

(LSVN) - Đặt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), với việc tăng cường sử dụng điện thoại thông minh và phát triển các nền tảng công nghệ, Fintech và cho vay ngang hàng – một giải pháp Fintech đã thâm nhập vào thị trường tài chính ngân hàng và có những tác động mạnh mẽ tới hệ sinh thái của ngành này. Tuy nhiên, trên phương diện pháp lý, hiện nay khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình sơ khai, hình thành. Do đó, việc nghiên cứu về hoạt động cho vay ngang hàng của các công ty Fintech, đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động này tại Việt Nam để có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật từ thực tiễn nghiên cứu và kinh nghiệm từ các quốc gia khác trên thế giới là vô cùng cần thiết.

Đặt vấn đề

Cho vay ngang hàng có thể được hiểu đơn giản là một hình thức kết nối trực tiếp giữa người vay và nhà đầu tư hoặc người cho vay thông qua nền tảng công nghệ số mà không thông qua các tổ chức trung gian tài chính nào. Mô hình này có đặc điểm nổi bật là quy trình, thủ tục nhanh chóng, giải ngân nhanh, phù hợp với những khách hàng là cá nhân có thu nhập thấp, sinh viên, doanh nghiệp nhỏ và vừa, siêu nhỏ... là những đối tượng không tiếp cận được những kênh vay vốn truyền thống như ngân hàng và/hoặc cần những khoản vay nhỏ, trong thời gian ngắn, giải ngân nhanh.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Bên cạnh những lợi ích đem lại, do được vận hành trên nền tảng số và chưa có khung pháp lý điều chỉnh nên hoạt động này cũng tồn tại một số rủi ro như: rủi ro không thu hồi được khoản cho vay, rò rỉ thông tin cá nhân, không có cơ chế giải quyết tranh chấp...

Những thách thức đặt ra yêu cầu cần phải hình thành một khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng, kết hợp với những biện pháp quản lý, giám sát chặt chẽ để quản lý hoạt động này.

Tổng quan về hoạt động cho vay ngang hàng của các công ty Fintech ở Việt Nam

Khái niệm, đặc điểm hoạt động cho vay ngang hàng của Công ty Fintech

Tại Việt Nam, theo Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (2020), cho vay ngang hàng – P2P Lending được hiểu là sự trao đổi tài chính trực tuyến, giữa các cá nhân hoặc tổ chức mà không thông qua trung gian trực tiếp như tổ chức tài chính truyền thống. Trong mô hình này, các ngân hàng có thể vẫn đóng một vai trò nhất định. Tùy theo sự quy định của mỗi quốc gia, “ngân hàng có thể sẽ hoạt động như các tổ chức lưu ký, cung cấp cho nền tảng các tài khoản của khách hàng và được xử lý trong nền tảng”.

Gần đây nhất, trong Dự thảo Fintech 2024 của Việt Nam định nghĩa “Giải pháp cho vay ngang hàng là giải pháp cho vay bằng đồng Việt Nam trên nền tảng số được thiết kế và thực hiện dựa trên ứng dụng công nghệ tài chính do công ty cho vay ngang hàng tham gia Cơ chế thử nghiệm cung cấp để kết nối thông tin bên đi vay với bên cho vay”.

Trong phạm vi bài nghiên cứu này, hoạt động cho vay ngang hàng của công ty Fintech được hiểu là hoạt động của công ty cung cấp dịch vụ tài chính công nghệ (công ty Fintech), được thiết kế và xây dựng trên nền tảng công nghệ số, kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) mà không thông qua trung gian tài chính. Các công ty Fintech cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng thường thường vận hành trên nền tảng trực tuyến, trong đó toàn bộ quy trình như phê duyệt khoản vay, giải ngân và thanh toán nợ giữa người vay và người cho vay được thực hiện qua hệ thống số hóa và lưu trữ dưới dạng các bản ghi điện tử trong cơ sở dữ liệu của công ty.

Từ khái niệm trên có thể thấy đặc điểm của hoạt động cho vay ngang hàng của Công ty Fintech như sau:

Thứ nhất, các công ty Fintech sẽ đóng vai trò trung gian, làm cầu nối để kết nối trực tiếp nhà đầu tư/người cho vay và người đi vay thông qua một nền tảng trực tuyến được gọi là nền tảng cho vay ngang hàng (có thể hiển thị dưới dạng một trang web và/hoặc một ứng dụng).

Các công ty Fintech có hoạt động cho vay ngang hàng thường sẽ cung cấp một số dịch vụ như sau:

- Xác thực thông tin khách hàng như nghề nghiệp, tài khoản ngân hàng và thu nhập của khách hàng.

- Xử lý các khoản thanh toán từ khách hàng vay và phân phối khoản thanh toán, lợi nhuận cho các nhà đầu tư đã tham gia vào khoản vay.

- Xây dựng và cung cấp các mô hình tín dụng cho vay tín chấp, quản lý, đánh giá thông tin và xếp hạng tín nhiệm của người vay. Quá trình này thường được thực hiện thông qua các hệ thống truyền thông, mạng xã hội và phần mềm chuyên biệt.

- Tìm kiếm và thu hút thêm nhà đầu tư cũng như khách hàng vay mới.

Thứ hai, nhà đầu tư/người cho vay và người đi vay sẽ thực hiện mọi giao dịch trên nền tảng trực tuyến do công ty Fintech cung cấp nên các quy trình, thủ tục sẽ nhanh chóng, tiện lợi hơn bao giờ hết chỉ với một vài thao tác, đồng thời, nhà đầu tư có thể dễ dàng theo dõi nguồn lợi nhuận của mình từ người đi vay.

Trên nền tảng cho vay trực tuyến, mọi thứ đều được số hóa. Do vậy, sẽ tiết kiệm được thời gian. Các hồ sơ yêu cầu cũng đơn giản hơn so với ngân hàng. Thời gian giao dịch nhanh chóng chỉ bằng một số thao tác.

Thứ ba, trên nền tảng cho vay ngang hàng do công ty Fintech cung cấp, nhà đầu tư/người cho vay có thể chọn lựa người để cho vay, giữa nhà đầu tư/người cho vay và người vay không nhất thiết phải có mối quan hệ trước đó. Việc lựa chọn người cho vay có thể được thực hiện theo hai mô hình là mô hình chủ động hoặc thụ động,

Thứ tư, các công ty Fintech trong lĩnh vực cho vay ngang hàng thường kết nối các khoản vay nhỏ và ngắn hạn, mang lại nguồn vốn đầu tư phù hợp cho tầng lớp có thu nhập thấp, không có tài sản bảo đảm.

Ở đây có thể kể đến các hình thức vay chủ yếu như cho vay tiêu dùng (vay để sửa nhà, mua sắm...), cho vay đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, siêu nhỏ, cho vay sinh viên...bởi trên thực tế các ngân hàng hiện nay không thể giải quyết hết tất cả nhu cầu của những người cần nguồn tiền vay ngắn hạn. Vay tiền ngân hàng phải qua quá trình thẩm định, xét duyệt hồ sơ gắt gao, khiến người cần nguồn vốn ngắn hạn không được đáp ứng.

Thứ năm, nhờ cách thức vận hành trên nền tảng trực tuyến và các chương trình, chính sách quảng cáo mạnh mẽ của các công ty Fintech, hoạt động cho vay ngang hàng cũng sẽ được biết đến một cách rộng rãi, giúp người đi vay thuận lợi trong thu hút người cho vay từ mọi thành phần kinh tế.

Khái niệm, đặc điểm pháp luật hoạt động cho vay ngang hàng của Công ty Fintech

“Pháp luật là các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng tới việc tạo ra trật tự và ổn định xã hội”. Như vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng có thể được hiểu là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động cho vay ngang hàng.

Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng của công ty Fintech có một số nét đặc trưng như:

Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng đặt ra những quy định về điều kiện gia nhập thị trường, điều kiện hoạt động, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia để hạn chế những rủi ro mà các bên tham gia hoạt động này có thể gặp phải, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này.

Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm của hoạt động cho vay ngang hàng, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng là một lĩnh vực pháp luật liên quan đến nhiều quy định pháp luật chuyên ngành khác nhau như quy định pháp luật về dân sự, thương mại, doanh nghiệp, thương mại điện tử, quản lý thuế, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ dữ liệu cá nhân...

Thứ ba, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng điều chỉnh các quan hệ xã hội đã phát sinh trên thực tế. Thực tế, hoạt động cho vay ngang hàng đã tồn tại từ trước, phát sinh các vấn đề rủi ro và khi đó pháp luật các quốc gia mới bắt đầu nghiên cứu để ban hành một hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng từ đó tạo ra hướng các công ty Fintech cung cấp dịch vụ này có hành vi theo đúng chuẩn mực, đúng quy định và khắc phục các rủi ro đã xảy ra.

Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay ngang hàng của Công ty Fintech

Những thành tựu đạt được

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), trong giai đoạn từ năm 2010 – 2023, số lượng công ty Fintech tại Việt Nam hình thành và phát triển một cách nhanh chóng, từ 10 công ty vào cuối năm 2010, đến hết năm 2023 đã có trên 187 công ty và hiện vẫn còn nhiều dư địa để tăng trưởng trong vài năm tới, thậm chí là thập kỷ tới.

Bảng 3.1: Số lượng các công ty Fintech trên thị trường Việt Nam giai đoạn 2010 – 2023.

Bảng 3.1: Số lượng các công ty Fintech trên thị trường Việt Nam giai đoạn 2010 – 2023.

 

Tại Việt Nam, mô hình cho vay ngang hàng bắt đầu xuất hiện từ năm 2016 với sự ra đời của trang huydong.com. Kể từ đó, nhiều công ty khác như Tima, SHA, Mobivi, Vaymuon.vn, Mofin... đã dần đi vào hoạt động.

Theo Báo cáo tài chính khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần thứ ba, “thị trường cho vay ngang hàng tại Việt Nam vẫn có quy mô khá nhỏ so với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, chỉ chiếm 1,6% khối lượng giao dịch của khu vực, chỉ xếp trên Nepal và Kazakhstan”. Tuy nhiên, “Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mô hình này nhờ sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, Internet, thiết bị di động, và đặc biệt là dữ liệu lớn (Big Data)”.

Về hình thức, “đa số các nền tảng cho vay ngang hàng tại Việt Nam có hoạt động theo mô hình truyền thống, đối tượng khách hàng chủ yếu là khách hàng vay tiêu dùng và các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa với các khoản vay chủ yếu là cho vay tín chấp, có nguồn vốn nhỏ”. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2023 về môi trường đầu tư kinh doanh tại 63 tỉnh, thành phố cho thấy khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên cả nước – phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải là tiếp cận tín dụng, với con số 57,1% doanh nghiệp phản ánh về khó khăn trong tiếp cận tín dụng từ ngân hàng, trong đó 82,1% doanh nghiệp không thể vay vốn do không có tài sản thế chấp. Xét “theo chuỗi thời gian, đây cũng là con số cao nhất từ trước đến nay trong khảo sát doanh nghiệp thường niên của VCCI trong gần 20 năm qua”. Lúc này, mô hình cho vay ngang hàng hứa hẹn là một kênh tiếp cận vốn nhanh chóng, không cần tài sản thế chấp, giải ngân nhanh mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể lựa chọn.

Những hạn chế tồn tại

Về chủ thể quản lý, hiện chưa có quy định giao hình thức cho vay ngang hàng cho cơ quan chức năng nào quản lý. Hoạt động cho vay này vẫn đang được xem là một hình thức giao dịch dân sự, do đó các bên tham gia cần thực hiện mọi hành vi theo quy định tại BLDS 2015.

Về quản lý, giám sát hoạt động cho vay ngang hàng của công ty Fintech

Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có quy định nào điều chỉnh cụ thể đối với hoạt động cho vay ngang hàng, hoạt động này cũng không thuộc danh mục các ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh. Xuất phát từ việc cho vay ngang hàng chưa được thừa nhận là một ngành nghề kinh doanh riêng biệt, do đó cũng không có cơ sở để quản lý chặt chẽ hoạt động này.

(1) Cấp phép hoạt động, hiện nay hoạt động cho vay ngang hàng chưa được chính thức cấp phép nên các công ty Fintech thực hiện hoạt động này thường đăng ký hoạt động dưới tư cách là các công ty tư vấn tài chính/đầu tư và tuân thủ theo các quy định liên quan đến quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp tại Luật Doanh nghiệp 2020 và không thuộc nhóm kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư 2020.

(2) Quản lý hoạt động của công ty Fintech cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng, xuất phát từ việc nhận diện cho vay ngang hàng là một quan hệ cho vay trực tiếp được thực hiện thông qua việc sử dụng kết nối dựa trên ứng dụng Internet mà không phải hoạt động kinh doanh giữa các tổ chức, cá nhân (không được thực hiện bởi các TCTD), vì vậy đây có thể coi là các giao dịch dân sự và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật các TCTD. Theo đó, về hoạt động quản lý các công ty cho vay ngang hàng đang vận hành trên cơ sở điều chỉnh của BLDS 2015.

Cụ thể, hoạt động này đang được điều chỉnh bằng các quy định áp dụng đối với hoạt động cho vay tài sản thông thường được quy định trong BLDS 2015 từ Điều 463 đến 471, nhưng luật này chỉ nêu những nguyên tắc chung trong giao dịch giữa cá nhân với nhau và được xem là “không đủ” để điều phối mối quan hệ cho vay ngang hàng. Việc sử dụng những quy định cũ để điều chỉnh cho những loại hình kinh doanh mới sẽ không thể phù hợp, vì nó giống như đang mặc một chiếc áo không vừa.

(3) Phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống, bảo vệ dữ liệu khách hàng, công khai thông tin, các nền tảng cho vay ngang hàng phải tuân thủ theo các quy định của Luật An toàn thông tin mạng 2015, Luật Giao dịch điện tử 2023, Luật Quảng cáo 2012; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023; Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2024 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân và các văn bản hướng dẫn liên quan khác.

Về xử lý vi phạm

Do chưa có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng nên các chế tài xử lý vi phạm đối với hoạt động này vẫn đang được bỏ ngỏ. Như đã phân tích, hiện tại, các hoạt động liên quan đến cho vay ngang hàng vẫn được pháp luật điều chỉnh tương tự như các giao dịch dân sự. Đối với những công ty cho vay ngang hàng hoạt động không đúng bản chất là trung gian kết nối, dưới dạng công ty cầm đồ, môi giới đầu tư... có hoạt động mang bản chất tín dụng đen cho vay với lãi suất quá mức BLDS quy định sẽ bị xử phạt theo BLHS 2015, về vấn đề cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, Nghị định số 144/2021/NĐ-quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình áp dụng đối với trường hợp công ty cầm đồ cho vay quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của BLDS, mức phạt dao động từ 10 triệu đồng đến 1 tỷ đồng, phạt tù lên đến 05 năm.

Do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên các quy định điều chỉnh hoạt động của các công ty cho vay ngang hàng thường nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau và chưa có sự đồng bộ. Hiện tại, NHNN vẫn đang xây dựng phương án thí điểm loại hình kinh doanh này và dự kiến đưa vay ngang hàng vào nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Nhìn chung, nhà nước cần sớm đưa hoạt động của các công ty này vận hành theo đúng quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo trật tự xã hội, an ninh hệ thống tài chính và quyền lợi người tiêu dùng.

Về vấn đề tiếp cận các mô hình kinh doanh mới

Thứ nhất, mô hình cho vay ngang hàng là một mô hình tương đối tiềm năng trong việc tạo ra nguồn vốn cho những cá nhân, doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn từ những kênh truyền thống. Việc tồn tại những lỗ hổng về hành lang pháp lý sẽ gây cản trở cho sự phát triển của các mô hình này tại Việt Nam.

Thứ hai, do chưa xác định được rõ bản chất của hoạt động cho vay ngang hàng nên việc cấp giấy phép kinh doanh cho loại hình doanh nghiệp cung cấp nền tảng cho vay ngang hàng tại Việt Nam được coi là một thách thức. Hiện nay, loại hình kinh doanh này vẫn chưa có trong danh mục ngành nghề kinh doanh. Việc không xác định đúng bản chất ngành nghề có thể gây khó khăn trong việc đánh thuế, dẫn đến thất thoát hoặc sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các công ty cung cấp nền tảng cho vay ngang hàng và các công ty công nghệ hoặc tổ chức tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính tương tự.

Thứ ba, việc thiếu biện pháp quản lý, giám sát có thể sẽ dẫn đến nguy cơ phát sinh rủi ro hoạt động, rủi ro nghiệp vụ của các sản phẩm, dịch vụ thử nghiệm, qua đó có thể dẫn đến những bất ổn về xã hội.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

Hoàn thiện khung pháp lý thử nghiệm trước khi xây dựng hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho mô hình cho vay ngang hàng của các công ty Fintech

Trong quá trình thực hiện khung pháp lý thử nghiệm, có thể cân nhắc bổ một số quy định như sau: Quy định cụ thể về trách nhiệm hoặc cam kết của các bên tham gia hoạt động cho vay ngang hàng; yêu cầu đối với các hợp đồng liên quan về nội dung và hình thức; quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; các mức giới hạn về khoản tiền có thể đầu tư, mức giới hạn khoản tiền có thể vay qua nền tảng và các yêu cầu khác thực hiện trong quá trình hoạt động như: Nghĩa vụ công bố thông tin của công ty cho vay ngang hàng; cơ chế bảo mật thông tin khách hàng; hoạt động quảng cáo; phòng chống rửa tiền…

Kiến nghị về chủ thể quản lý

Theo tác giả, cần thiết có quy định đối với trường hợp quy định người đại diện theo pháp luật không có án tích hoặc là không đồng thời là chủ sở hữu trong các lĩnh vực cầm đồ, kinh doanh đa cấp…đang hiện hữu nằm trong ban lãnh đạo thành viên của Hội đồng quản trị…

Bên cạnh đó, người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc (Giám đốc) của công ty cũng phải là người có bằng cấp, chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin và không thuộc những đối tượng bị cấm theo quy định pháp luật.

Quy định về công khai, minh bạch thông tin

Việc thực hiện thủ tục vay vốn qua các web/ứng dụng điện tử cùng quá trình giải ngân nhanh chóng như hiện nay khiến nhiều khách hàng thậm chí chỉ biết tên web/ứng dụng vay tiền chứ không hề biết về tên công ty cho vay ngang hàng. Bởi vậy, rất khó để phân biệt đâu là công ty cho vay ngang hàng hoạt động đúng bản chất, đâu là các công ty cho vay ngang hàng “trá hình” để thực hiện hành vi cho vay nặng lãi, tín dụng đen.... Chính vì vậy, cần đưa ra quy định buộc các công ty cho vay ngang hàng phải công bố công khai các thông tin trên trang điện tử chính thức của công ty như: cơ cấu tổ chức, bộ máy lãnh đạo, lịch sử thành lập, nguồn gốc hoạt động, chính sách khách hàng... Đồng thời, cơ quan nhà nước cần có sự kiểm soát và thẩm tra tính chính xác của những thông tin công khai này.

Quy định các hành vi bị cấm

Để hạn chế tối đa rủi ro mà hoạt động cho vay ngang hàng có thể đem lại cho hệ thống tài chính và người tiêu dùng, cần thiết quy định những hành vi và công ty cho vay ngang hàng không được phép thực hiện. Những hành vi bị cấm trong hoạt động cho vay ngang hàng có thể được xây dựng theo hướng:

Cấm hoạt động trực tiếp huy động và cấp tín dụng cho người đi vay hay hoạt động theo mô hình xác sống (ponzi) đây là mô hình với nhiều dấu hiệu lừa đảo, chiếm đoạt tiền của người cho vay và cả người đi vay; cấm thực hiện chức năng trung gian thanh toán; cấm ăn cắp thông tin khách hàng để đe dọa, gây áp lực cho người vay và người thân của họ; cấm thực hiện đòi nợ thông qua các tổ chức xã hội đen, đòi nợ thuê; cấm quảng cáo sai sự thật, không đưa thông tin trung thực về công ty, dịch vụ, lãi suất và các thông tin liên quan đến hoạt động cho vay ngang hàng, phóng đại lợi nhuận; cấm công ty Fintech cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng sử dụng tiền của nhà đầu tư hay tiền trả nợ của người đi vay nhằm mục đích đầu tư, kinh doanh; cấm cung cấp thông tin của khách hàng mà không có sự đồng ý của họ... Việc cấm thực hiện những hành vi này sẽ đảm bảo tính minh bạch của hoạt động cho vay ngang hàng, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn đối với các chủ thể tham gia đồng thời tạo điều kiện cho việc quản lý khoản vay của các công ty cho vay ngang hàng dễ dàng và quy củ hơn.

Mặt khác, cần có chế tài cụ thể trong quản lý hoạt động cho vay ngang hàng của công ty Fintech. Việc quy định chế tài sẽ góp phần tăng tính chất răn đe, hạn chế tối đa các hoạt động biến tướng tín dụng đen – cho vay nặng lãi, hoạt động gây thiệt hại cho khách hàng, gian dối trong báo cáo định kỳ, nền tảng vận hành không theo đăng ký được cấp...

Về xác định mô hình kinh doanh

Trước hết cần xác định rõ tư cách pháp lý đối với các nền tảng cho vay ngang hàng là tổ chức trung gian cung cấp các thông tin về cho vay trực tuyến chứ không đóng vai trò như một tổ chức trung gian tài chính. Mặc dù chỉ là công cụ kết nối giữa bên vay và bên cho vay, không phải là tổ chức trung gian tài chính nhưng nền tảng cho vay ngang hàng lại có liên hệ mật thiết đến hoạt động tài chính trên thị trường. Bởi vậy, sự yếu kém trong hoạt động của các công ty cho vay ngang hàng sẽ dễ dẫn đến những hậu quả khôn lường, ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu dùng - bên vay và bên cho vay - nói riêng và toàn bộ thị trường tài chính nói chung. Đồng thời, cho vay ngang hàng cũng là một hình thức rất dễ “biến tướng” và bị lợi dụng để trở thành những hành vi tín dụng đen, cho vay nặng lãi, rửa tiền... Chính vì những lý do này, việc siết chặt quản lý, mà cụ thể là quy định cho vay ngang hàng là một hoạt động kinh doanh có điều kiện và cần được cấp phép hoạt động là điều vô cùng cần thiết. Đây cũng là biện pháp được nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Singapore... thực hiện nhằm loại những công ty cho vay ngang hàng không có đủ năng lực khỏi thị trường cho vay ngang hàng, từ đó đảm bảo sự an toàn và lành mạnh cho hoạt động cho vay ngang hàng. Theo kinh nghiệm của Singapore, các công ty tham gia hoạt động cho vay ngang hàng đều phải được kiểm định và cấp giấy phép dịch vụ thị trường vốn từ NHTW mới được phép hoạt động. Tại Việt Nam, với vai trò là cơ quan quản lý chủ chốt đối với hoạt động tiền tệ - ngân hàng cùng trình độ chuyên môn, khả năng sâu sát cao, Ngân hàng Nhà nước nên là cơ quan được giao nhiệm vụ thẩm định và cấp phép hoạt động cho các công ty cho vay ngang hàng.

Kết luận

Trên phương diện pháp luật bài báo đã khái quát được một số vấn đề lý luận cơ bản về cho vay ngang hàng, trong đó đánh giá được những rủi ro tiềm ẩn mà hoạt động này có thể đem lại. Đây là mô hình tài chính thay thế có chức năng kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay (nhà đầu tư) thông qua nền tảng số, nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh. Đồng thời, bài báo cũng xác định các vấn đề liên quan đến việc điều chỉnh của các pháp luật đối với hoạt động cho vay ngang hàng.

Trên phương diện ý nghĩa khoa học bài báo đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và cơ sở tiếp cận để điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam; Nhận diện hoạt động cho vay ngang hàng tại một số quốc gia trên thế giới và phân tích sự định pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động cho vay ngang hàng tại các quốc gia này, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; Đưa ra một số khuyến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong vấn đề quản lý hoạt động cho vay ngang hàng của các công ty Fintech.

Mục lục tài liệu tham khảo

  1. Bộ luật Dân sự năm 2015
  2. Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
  3. Luật An toàn thông tin mạng năm 2015
  4. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
  5. Luật Đầu tư năm 2020
  6. Luật Quảng cáo năm 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2018
  7. Luật Thương mại năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2019
  8. Luật Giao dịch điện tử năm 2023
  9. Trần Nhật Phương, Bùi Thị Minh Nhật, Dương Lan Chi (2022), Hành lang pháp lý về mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện, Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội
  10. Julia Kagan, Peer-to-Peer Lending, https://www.investopedia.com/terms/p/peer-to-peer-lending.asp, truy cập ngày 20/05/2025
  11. Thanh Xuân (2024), Xây dựng cơ chế thử nghiệm cho vay ngang hàng, Báo thanh niên, https://thanhnien.vn/xay-dung-co-che-thu-nghiem-cho-vay-ngang-hang-185240305182924993.htm, truy cập ngày 20/05/2025
  12. Nguyễn Thuỵ Hân, Pháp luật là gì? Các hình thức thực hiện pháp luật, https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/ho-tro-phap-luat/tu-van-phap-luat/42651/phap-luat-la-gi-cac-hinh-thuc-thuc-hien-phap-luat, truy cập ngày 03/06/2025
  13. University of Cambridge JBS (2018) The 3rd Asia Pacific region alternative finance industry report, https://www.jbs.cam.ac.uk/wp-content/uploads/2020/08/2019-04-3rd-asia-pacific-alternative-finance-industry-report.pdf, truy cập 23/05/2025
  14. TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu (2023), Thực trạng Fintech tại Việt Nam, kinh nghiệm quản lí quốc tế và đề xuất, Tạp chí Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn/thuc-trang-fintech-tai-viet-nam-kinh-nghiem-quan-li-quoc-te-va-de-xuat-10589.html, truy cập 23/05/2025
  15. Chuyện thật như đùa: Tung clip lên mạng, mỗi tháng thu hàng tỷ 'không thèm' nộp thuế, Báo Dân trí, https://vietnamnet.vn/chuyen-that-nhu-dua-tung-clip-len-mang-moi-thang-thu-hang-ty-khong-them-nop-thue-520157.html, truy cập ngày 03/06/2025
  16. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2023), Báo cáo Chỉ số PCI và PGI 2023, tr.65

ĐỖ HOÀNG LONG

Ngân Hàng TMCP Bắc Á

Các tin khác