/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Một số ý kiến về tổng kết 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Một số ý kiến về tổng kết 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

02/09/2025 07:36 |

(LSVN) - Ngày 26/8/2025, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã có Công văn số 427/LĐLSVN chỉ đạo về việc rà soát, xây dựng Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) giai đoạn 2014 – 2024). Qua thực tiễn tham gia nghiên cứu, tuyên truyền phổ biến pháp luật và tham dự một số phiên tòa có liên quan lĩnh vực này, tác giả đã đưa ra một số ý kiến và kiến nghị hoàn thiện.

Qua 10 năm triển khai thực hiện Luật HN&GĐ từ năm 2014 đến 2024 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý

Luật đã quy định cụ thể, toàn diện về chế độ hôn nhân và gia đình; quan hệ giữa vợ và chồng; cha, mẹ, con; quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình; các vấn đề về ly hôn, cấp dưỡng, giám hộ, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...

Hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình ngày càng đồng bộ, thống nhất, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải quyết các quan hệ phát sinh trong đời sống gia đình.

Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Luật không chỉ kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của gia đình Việt Nam, mà còn loại bỏ dần các hủ tục lạc hậu.

Góp phần xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.

Tác động tích cực đến xã hội

Việc thực thi Luật HN&GĐ đã nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của nhân dân trong việc kết hôn, ly hôn, nuôi dạy con cái, chăm sóc người thân.

Tạo cơ sở để giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong đời sống hôn nhân và gia đình.

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình

Luật đã góp phần đề cao vai trò, vị trí của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.

Bảo đảm sự bình đẳng giới, bảo vệ quyền trẻ em, quyền phụ nữ và người yếu thế trong quan hệ gia đình.

Đặc biệt, trong lĩnh vực tố tụng liên quan đến HNGĐ cũng đã có nhiều cải tiến.

Nhìn lại, ta thấy sau 10 năm triển khai, Luật HN&GĐ đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam theo hướng tiến bộ, bình đẳng, bền vững, góp phần ổn định xã hội và phát triển đất nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

 Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, khó khăn, thách thức sau 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ. 

Một số quy định chưa theo kịp thực tiễn

Một số vấn đề mới phát sinh trong đời sống xã hội (như hôn nhân đồng giới, mang thai hộ vì mục đích thương mại, nuôi con nuôi xuyên quốc gia, công nghệ hỗ trợ sinh sản...) chưa được điều chỉnh đầy đủ.

Một số quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.

Công tác tổ chức thực hiện chưa đồng đều

Việc triển khai Luật ở một số địa phương còn hình thức, thiếu chiều sâu.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhất là các vấn nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết…

Ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế

Một bộ phận người dân vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phong tục, tập quán lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân cận huyết, trọng nam khinh nữ…

Nhiều trường hợp giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình tại Tòa án vẫn kéo dài, phức tạp do đương sự thiếu hiểu biết pháp luật hoặc cố tình lợi dụng kẽ hở pháp luật.

Khó khăn trong công tác bảo vệ quyền lợi các nhóm yếu thế

Trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi trong nhiều trường hợp vẫn chưa được bảo vệ đầy đủ, đặc biệt trong các vụ việc bạo lực gia đình, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.

Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan (Tòa án, Viện Kiểm sát, UBND, Hội Liên hiệp phụ nữ, tổ hòa giải cơ sở…) đôi khi chưa chặt chẽ.

Thách thức từ yếu tố nước ngoài và hội nhập quốc tế

Số lượng các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, phức tạp về pháp luật áp dụng, thủ tục tố tụng và thi hành án. Trong đó, nhiều vụ việc liên quan đến “hôn nhân sắp đặt” vì kinh tế mà không có tình yêu trong những người mơ cuộc số xa hoa ở nước ngoài, hoặc vì mục đích muốn giúp đỡ gia đình cải thiện cuộc sống…

Vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài còn gặp nhiều vướng mắc.

Sau 10 năm thực hiện, Luật HN&GĐ đã đạt nhiều thành tựu quan trọng nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế, khó khăn. Điều này đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung luật và tăng cường công tác thực thi để phù hợp hơn với thực tiễn đời sống xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế.

Một số kiến nghị, giải pháp 

Cải thiện công tác giải quyết vụ án tại Tòa án

Đẩy mạnh hòa giải, thủ tục rút gọn: Áp dụng linh hoạt thủ tục nhanh (conciliatory mediation), nhất là các vụ ly hôn không có tranh chấp lớn, hoặc các vụ có sự thỏa thuận về tài sản và quyền nuôi con, từ đó giảm tải cho xét xử chính thức.

Xây dựng trung tâm cung cấp trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế (phụ nữ vùng sâu, dân tộc thiểu số, trẻ em…) – qua đó giúp họ hiểu rõ quyền và thủ tục pháp lý hơn, hạn chế tranh chấp kéo dài do thiếu thông tin, gây mất an toàn pháp lý.

Hoàn thiện pháp luật và bổ sung các chế tài và các quy định

Bổ sung quy định rõ hơn về giới hạn thời gian xử lý ly hôn, chẳng hạn xác định mức tối đa Tòa án phải ra quyết định sau khi đủ điều kiện.

Cân nhắc sửa Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014, để đảm bảo tính hợp lý giữa quyền yêu cầu ly hôn và bảo vệ sức khỏe, thể chất người mẹ trong thời kỳ mang thai, sinh con, nuôi con dưới 12 tháng như hướng dẫn theo Nghị quyết 01/2024 đã quy định.

Điều 2 Nghị quyết 01/2024 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật HN&GĐ

4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

So sánh với khoản 3, Điều 51 Luật HNGĐ 2014 quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Tuy nhiên, theo người viết bài này, với kinh nghiệm tham gia các vụ án ly hôn cần bổ sung quy định ở vế ngược lại:

Người vợ có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, nhưng mâu thuẩn trầm trọng nếu không giải quyết sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thai phụ và con trong bụng…

Bên cạnh đó, cũng cần có những quy định rõ ràng hơn về tố tụng trong trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, thuộc một trong các trường hợp sau:

- Đã kết hôn về mặt giấy tờ, nhưng chồng không đón theo chồng ra nước ngoài sinh sống cần ly hôn để chấm dứt tình trạng bị trói buộc bởi hôn nhân chỉ có trên danh nghĩa. Thực chất không được làm vợ, làm mẹ như những người phụ nữ thông thường khác;

- Đã kết hôn và đã theo chồng ra nước ngoài nhưng hôn nhân không hạnh phúc, muốn ly hôn và về nước với cha mẹ, nhưng bị nhiều hạn chế về pháp lý…

- Xem xét mở rộng điều chỉnh các hình thức hôn nhân mới: như hôn nhân đồng giới, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (phi thương mại), hay sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản... Điều này phản ánh yêu cầu hội nhập quốc tế cũng như nhu cầu và thực tiễn xã hội hiện đại trong nước ngày càng đa dạng.

- Xem xét quy định rõ chế định tài sản riêng vợ chồng, nhằm bảo đảm quyền lợi cho người vợ và các con trong trường hợp phải sống chung với gia đình nhà chồng. Hoặc ngược lại, trường hợp người chồng phải sống với gia đình nhà vợ.

- Phạt hành chính rõ ràng và nghiêm minh hơn áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân, như: tảo hôn, kết hôn cận huyết, cưỡng ép hôn nhân, lừa dối ly hôn – ly hôn giả tạo, hoặc vi phạm quy định chế độ một vợ một chồng...

Theo Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng - Mức phạt đã có, nhưng cần tăng cường các biện pháp xử lý hiệu quả hơn. Trong có, cần nghiên cứu tăng mức phạt vì mức phạt đã 5 năm không còn phù hợp với chuyển biến về giá cả (nói chung) và mức phạt các vi phạm hành chính khác (nói riêng)…

Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội

Tuyên truyền sâu rộng ở địa bàn vùng khó khăn về Luật HN&GĐ, bảo vệ quyền trẻ em, bình đẳng giới, tránh những hủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân cận huyết... cần tiếp tục được đẩy mạnh.

Phối hợp với trường học, cơ sở tôn giáo, truyền thông để phổ biến kiến thức pháp lý về hôn nhân gia đình đến người dân, đặc biệt nhóm dễ bị tổn thương.

Riêng giới luật sư và các trợ giúp viên pháp lý là những người có thực tiễn tham gia giải quyết các vụ án HNGĐ, những cán bộ Tòa án, Kiểm sát và Công an… cần tăng cường phố hợp Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên ở cấp xã, phường, đặc khu (sau sáp nhập), giúp triển khai và tư vấn thường xuyên, định kỳ đối với các đối tượng đã, hoặc sắp kết hôn… hoặc có những vấn đề băn khoăn trong thời kỳ hôn nhân…

Hôn nhân và gia đình vốn là nơi mỗi người tìm thấy bình yên, nhưng cũng là nơi dễ tổn thương nhất khi xảy ra mâu thuẫn. Sau 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ, chúng ta đã có nhiều tiến bộ quan trọng, song vẫn còn không ít khoảng trống cần hoàn thiện.

Bởi lẽ, một xã hội phát triển bền vững phải được xây dựng từ những gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Và pháp luật – cùng với tình yêu thương, sự sẻ chia – chính là chiếc chìa khóa để giữ lửa hạnh phúc ấy trong từng mái ấm Gia đình Việt Nam.

Việc tổng kết 10 năm Luật HN&GĐ là rất quan trọng và cần thiết. Nhưng quan trọng và thiết thực hơn là qua tổng kết, tìm ra cho được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Qua đó, đề ra được các giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc mà Đề cương báo cáo do Bộ Tư pháp đề ra. Nhằm nâng cao hiệu quả thi hành và hoàn thiện Luật HNGĐ trong giai đoạn mới.

Thạc sĩ, Luật sư PHAN VĨNH

Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh