/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Nâng cao năng lực Luật sư Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập của doanh nghiệp

Nâng cao năng lực Luật sư Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập của doanh nghiệp

05/01/2021 18:14 |

(LSVN) - Thách thức về trình độ, kỹ năng hành nghề của Luật sư Việt Nam hiện nay phải được giải quyết bằng đào tạo bài bản, nghiêm túc, lâu dài của Nhà nước và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, để có được một bộ phận Luật sư chuyên nghiệp, đủ năng lực hành nghề, tương đương với các Luật sư quốc tế và các tổ chức hành nghề Luật sư chuyên sâu các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài có thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới…

Ảnh minh họa.

Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam

Cùng với công cuộc đổi mới nội lực, Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng kinh tế toàn cầu, theo các thang bậc từ hẹp đến rộng, từ thấp tới cao. Đó là quy luật chung, là sự gắn kết của mỗi quốc gia vào các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế, trên cơ sở các luật chơi chung các bên đều có lợi, cùng phát triển. Dưới tác động của hội nhập, nhu cầu phát triển đã lan tỏa, lôi cuốn các quốc gia vào dòng chảy toàn cầu, nhờ vậy mà hàng hóa, vốn đầu tư, dịch vụ, thông tin, lao động, phương tiện giao thông, vận tải… lan tỏa toàn thế giới.

Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã cùng với các bộ, ngành, các hiệp hội tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tham gia đóng góp đối với tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. Mở ra môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế tiên tiến, thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài. Với tầm và quy mô hội nhập hiện nay, các mối quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên kết.

Để thực thi cam kết trong hiệp định thương mại tự do (FTA) nói chung và Hiệp định CPTPP nói riêng, Nhà nước phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, công đoàn… Các luật lệ, chính sách không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề phi thương mại, như: quyền của người lao động (NLĐ); tiêu chuẩn lao động; tự do hiệp hội - công đoàn; môi trường; doanh nghiệp nhà nước; mua sắm chính phủ; xử lý hiệu quả tranh chấp, vướng mắc kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp… Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có thể tận dụng được tối đa những cơ hội, giảm thiểu những thách thức gặp phải trong quá trình hội nhập.

Chưa bao giờ người dân, doanh nghiệp Việt Nam lại có nhiều cơ hội như ngày nay. Tuy nhiên, hội nhập là đòi hỏi khách quan, đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ, tiền đề có ý nghĩa quyết định cho doanh nghiệp thành công chính là nâng cao nội lực. Trong đó, nâng cao nguồn lực con người là yếu tố không thể thiếu, không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có kiến thức hiểu biết về pháp luật, tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật.

Những khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam  

Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập đối với doanh nghiệp, nhất là DNVVN là hết sức khó khăn. Với xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia FTA, một thách thức rất lớn đối với NLĐ trong nước là sức ép về trình độ, tri thức và tay nghề, nguy cơ tranh chấp quốc tế… Hiện tại, lực lượng lao động Việt Nam chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn; số lao động có chuyên môn, tay nghề cao còn thiếu; đội ngũ cán bộ, chủ các doanh nghiệp nước ta thiếu kiến thức, hạn chế về năng lực hội nhập và ý thức chấp hành pháp luật.

Chuyển biến trong tư duy trong nước chưa kịp với tình hình mới và tốc độ hội nhập của quốc tế. DNVVN và khu vực tư nhân chiếm đại đa số, song còn manh mún, quy mô nhỏ, thiếu nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản trị… Các hiệp hội, địa phương và doanh nghiệp hiểu và tham gia hội nhập còn thụ động; cơ chế điều phối, liên kết còn nhiều bất cập.

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn là các đối tượng có khả năng phải gánh chịu các rủi ro pháp lý vì lý do chủ quan và khách quan. Chính vì vậy mà cần phải có chuyên gia tư vấn thường xuyên để ngăn ngừa, phòng tránh trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay đang thiếu đội ngũ Luật sư giỏi về tư vấn đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế… cho các doanh nghiệp, trong khi các FTA thế hệ mới có quy định rất cao về giải quyết tranh chấp và buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về pháp luật.

Luật sư Việt Nam

Số lượng Luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, sau 10 năm thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam, chúng ta đã có hơn 14.000 Luật sư (tính đến ngày 30/4/2020). Đa số các Luật sư có phẩm chất chính trị, trung thành với Đảng, có ý thức phấn đấu đóng góp cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội và tuân thủ quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.

Trong 10 năm (2009 đến 2018), Luật sư Việt Nam đã tham gia hơn 133.000 vụ án hình sự; 114.000 vụ việc dân sự; 51.000 vụ việc trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, thương mại. Đội ngũ Luật sư cũng đã đảm nhiệm việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu. Đồng thời Luật sư cũng tham gia tích cực vào công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật; trợ giúp pháp lý; tuyên truyền phổ biến pháp luật; đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật...

Tuy số lượng Luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng nhanh, song chưa hình thành được đội ngũ các Luật sư chuyên sâu về từng lĩnh vực. Các Luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật hành chính, lao động, kinh tế… tỷ lệ vụ việc mà các Luật sư tham gia tương đối thấp; đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, thương mại mới chiếm khoảng 17%. Tổ chức hành nghề Luật sư có kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Số Luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại (sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, hàng không, hàng hải, bảo hiểm, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế…) còn đang trong quá trình hình thành. Do vậy, trong thời gian qua, đối với phần lớn các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, các cơ quan, tổ chức của Việt Nam vẫn phải thuê Luật sư nước ngoài làm đại diện, tư vấn và bảo vệ, tốn kém hàng triệu USD mỗi vụ.

Hoạt động hành nghề Luật sư hiện nay còn phân tán; Việt Nam đã có hàng nghìn tổ chức hành nghề Luật sư, nhưng mỗi tổ chức hành nghề chỉ có từ 1 đến 2 Luật sư, số tổ chức có trên 10 Luật sư còn rất ít. Quy mô nhỏ này phù hợp với đặc điểm phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý thời gian qua, khi đối tượng khách hàng chủ yếu là cá nhân và dịch vụ pháp lý là tham gia tố tụng và các giao dịch dân sự cá nhân. Đến nay, những chuyển biến của thị trường, đối tượng khách hàng không chỉ là cá nhân mà còn là các doanh nghiệp, đòi hỏi dịch vụ pháp lý phải ở mức độ chuyên môn hóa, chuyên nghiệp ở nhiều lĩnh vực và cần có quy mô tập trung để cung cấp dịch vụ đồng bộ. Nhu cầu của doanh nghiệp hiện nay là cần cung cấp các dịch vụ thuộc nhiều lĩnh vực, từ các dịch vụ tư vấn đến các hoạt động tranh tụng tại tòa án hoặc trọng tài quốc tế…

Một thực tế hết sức khó khăn cho Luật sư Việt Nam do không biết hoặc yếu ngoại ngữ, nên không thể tiếp cận với pháp luật quốc tế, với khách hàng là doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, để giải quyết tranh chấp, tư vấn trong đàm phán, kinh doanh, giải quyết tranh chấp các vụ việc có yếu tố nước ngoài. Hiện tại chúng ta đang thiếu các Luật sư được đào tạo đạt tới trình độ được nước ngoài công nhận.

Nâng cao năng lực Luật sư đáp ứng nhu cầu hội nhập

Trong Nghị quyết của Đảng về chiến lược “Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định rõ tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Luật sư nhằm: đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của xã hội phục vụ cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 123/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020”. Ngoài việc phát triển số lượng (từ 18.000 - 20.000) để đạt tỷ lệ số Luật sư trên số dân (1/4.500), đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp; còn phải chú trọng đến số Luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế (khoảng 150 người). Phấn đấu năm 2020, có 30 tổ chức hành nghề Luật sư có quy mô từ 50 đến 100 Luật sư và từ 100 Luật sư trở lên, hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài; trong đó có khoảng 10 tổ chức hành nghề Luật sư của Việt Nam có thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới. Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 02/2019/TT-BTP quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của Luật sư, nhằm cập nhật kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng hành nghề Luật sư liên quan đến hội nhập, góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ Luật sư…

Chất lượng không đồng đều của Luật sư hiện nay yêu cầu phải bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là cần thiết, phù hợp với hoạt động hành nghề Luật sư. Việc đào tạo nghề Luật sư là đào tạo để người cử nhân luật có thể trở thành Luật sư, việc bồi dưỡng kỹ năng hành nghề Luật sư giúp cho Luật sư nâng cao hiểu biết về pháp luật, kỹ năng và nhất là những quy định mới của pháp luật trong nước và quốc tế đáp ứng nhu cầu hội nhập. Không chỉ chú trọng về chuyên môn, kỹ năng hành nghề, mà còn phải có nội dung bồi dưỡng về ngoại ngữ cho các Luật sư có khả năng, để họ có thể tiếp cận với thị trường mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Thách thức về trình độ, kỹ năng hành nghề của Luật sư Việt Nam hiện nay phải được giải quyết bằng đào tạo bài bản, nghiêm túc, lâu dài của Nhà nước và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, để có được một bộ phận Luật sư chuyên nghiệp, đủ năng lực hành nghề tương đương với các Luật sư quốc tế và các tổ chức hành nghề Luật sư chuyên sâu các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài có thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới. Nhà nước cần đầu tư, hỗ trợ để nâng cao nguồn nhân lực, bằng việc cấp kinh phí đào tạo cho số Luật sư có đủ khả năng phát triển, tạo ra một đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp ở các lĩnh vực phục vụ hội nhập, trong đó có cả đào tạo ở nước ngoài. Xây dựng một số tổ chức hành nghề Luật sư chuyên môn hóa cao ở nhiều lĩnh vực, quy mô lớn, tập trung các Luật sư giỏi để tạo nên sự đồng bộ, có thể cung cấp dịch vụ theo nhu cầu của các doanh nghiệp từ tư vấn đến hoạt động tranh tụng tại tòa án hoặc trọng tài quốc tế.

Sự trưởng thành về lực lượng và trình độ của Luật sư Việt Nam không chỉ tạo điều kiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, mà còn tạo ra nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp kinh doanh pháp lý trong nước cạnh tranh với nước ngoài. Ngày nay, khách hàng không chỉ tìm đến Luật sư để tư vấn giải quyết những vụ việc đã xảy ra hoặc những dịch vụ đã được định hình, mà còn tìm hiểu cơ hội kinh doanh, kiến thức hội nhập và kiểm soát ngăn chặn rủi ro pháp lý trong quá trình sản xuất - kinh doanh. Do đó, chất lượng hoạt động của Luật sư không chỉ biểu hiện ở kiến thức, kỹ năng pháp lý, mà còn ở sự hiểu biết kiến thức quản trị, kinh doanh, xã hội và kinh nghiệm hoạt động của doanh nghiệp. Những kiến thức này, chỉ có thể có do thực tiễn hành nghề, được chuyên môn hóa qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và học tập thường xuyên của người hành nghề Luật sư.

Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các đoàn Luật sư cần nâng cao chất lượng thực sự của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ Luật sư, gắn với nhu cầu xã hội và hội nhập, nhất là các lĩnh vực pháp luật liên quan đến doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, tài chính, thông tin, kiến thức về hội nhập… Lựa chọn, giới thiệu cung cấp nguồn Luật sư có khả năng cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khi có yêu cầu. Đồng thời chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ “Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam”; tăng cường hoạt động truyền thông để người dân, doanh nghiệp hiểu rõ hơn về vai trò và dịch vụ pháp lý của Luật sư. 

Vai trò của đội ngũ Luật sư phản ánh trình độ văn minh, phát triển của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, số lượng Luật sư, các tổ chức hành nghề Luật sư phát triển nhanh cùng với chất lượng các dịch vụ pháp lý được nâng cao, cho thấy sự phát triển của nghề Luật sư ở Việt Nam. Điều đó đã mở ra một tương lai tốt đẹp cho nghề Luật sư, trong điều kiện kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển, sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Cũng như doanh nghiệp, trong giai đoạn này vị thế và vai trò của nghề Luật sư được coi trọng và có nhiều cơ hội để phát triển. Có thể nói, đây là thời điểm mà xã hội đã nhìn nhận đúng hơn đối với vai trò nghề Luật sư. Người dân, doanh nghiệp ngày càng tìm đến Luật sư như một nhu cầu thiết yếu. Nền tư pháp nước nhà ngày một phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi để Luật sư thể hiện đúng chức năng của mình.

Để đáp ứng nhu cầu của hội nhập, chúng ta cần có đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp, tương đương với các đồng nghiệp quốc tế; các tổ chức hành nghề Luật sư chuyên môn hóa cao ở các lĩnh vực, quy mô lớn, đồng bộ có thể cung cấp các dịch vụ theo nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài. Thực hiện đúng theo tiến trình cải cách tư pháp, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đây là xu hướng tất yếu, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tổ chức hành nghề Luật sư và mỗi cá nhân Luật sư.

Luật sư TRẦN VĂN CHƯƠNG

/hoat-dong-tro-giup-phap-ly-trach-nhiem-xa-hoi-nang-cao-vi-the-luat-su.html