LSVNO - Bản chất của các quan hệ pháp luật nội dung ảnh hưởng rất nhiều đến việc xây dựng nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng. Mỗi ngành luật tố tụng khác nhau đều quy định nghĩa vụ chứng minh có điểm đặc thù riêng. Bài viết này tập trung làm rõ nghĩa vụ chứng minh và một số trường hợp không phải chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015).
Đương sự là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Đương sự đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
Quan hệ pháp luật dân sự được hình thành từ sự tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc cam kết, thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Do đó, việc giải quyết tranh chấp dân sự là giải quyết các quan hệ có tính chất “riêng tư” của các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Một trong những quy định của BLTTDS 2015 nhằm bảo đảm sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa các chủ thể trong tố tụng dân sự đó là cho phép các đương sự có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của mình.
Khi các đương sự có yêu cầu thì đều phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đây là nguyên lý đặc trưng trong pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Theo quy định của BLTTDS 2015, yêu cầu của đương sự có thể xác định cụ thể, đó là: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Qua lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cho thấy, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ngày càng được xác định chắc chắn và rõ nét là gắn liền với chủ thể có quyền lợi từ việc giải quyết vụ việc dân sự. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 không có quy định rõ ràng về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, mà tại Chương 7 của Pháp lệnh này chỉ có quy định thẩm phán phải điều tra vụ án dân sự trước khi hòa giải, xét xử. Quy định này dường như đã đẩy quá nhiều gánh nặng chứng minh cho tòa án. Điều này là không phù hợp, bởi việc giải quyết quan hệ dân sự là giải quyết lợi ích tư của các chủ thể.
Ở đây, tòa án đã phải gánh vác nghĩa vụ chứng minh thay cho chủ thể có quyền lợi trực tiếp trong vụ án. Để khắc phục những hạn chế trên, từ khi xây dựng BLTTDS 2004 và đến BLTTDS 2015, nhà làm luật đã thiết lập một chế định riêng về chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó điều luật đầu tiên của chế định quy định về “nghĩa vụ chứng minh”. Nội dung của quy định này nhằm xác định rõ “gánh nặng” chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về đương sự, tránh việc đương sự đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm của mình cho chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Đồng thời, hai bộ luật đều loại bỏ quy định tòa án phải điều tra vụ án dân sự, thay thế đó là quy định tòa án có thể tự mình tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ trong một số trường hợp luật định nhằm giúp vụ án được giải quyết đúng đắn, chính xác hơn. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh thay đương sự, tòa án chỉ hỗ trợ đương sự khi đương sự đã nỗ lực hết sức nhưng không thể chứng minh được cho quyền lợi của mình.
Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự phản đối đó
Trong tố tụng dân sự, không chỉ đương sự đưa ra yêu cầu mà ngay cả đương sự phản đối yêu cầu cũng có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác bỏ yêu cầu đó.
Nói cách khác, đương sự phản đối yêu cầu cũng phải thuyết phục tòa án rằng mình không xâm phạm đến quyền lợi của đương sự có yêu cầu; từ đó tòa án mới có căn cứ, cơ sở để bác bỏ yêu cầu mà phía bên kia đưa ra. Đương sự phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, các lý lẽ, lập luận để chứng minh cho việc phản đối đó là đúng đắn và có cơ sở.
So sánh với quy định của pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự có sự khác biệt. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự không thuộc về chủ thể bị buộc tội mà thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Điều này là dễ hiểu vì mối quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội là quan hệ giữa nhà nước và người được quy đoán là phạm tội. Để bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng thì nhà nước (mà đại diện là tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) phải xác định rõ người bị tình nghi (bị can, bị cáo) đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Khi các cơ quan này khởi tố một vụ án hình sự nghĩa là đang đưa ra một yêu cầu buộc tội, khi đó họ phải chứng minh việc buộc tội đó là có căn cứ và hợp pháp - điều này rất phù hợp với nguyên lý “Ai đưa ra yêu cầu, người đó phải chứng minh”.
Những trường hợp đương sự không phải chứng minh
Đương sự được loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh
Nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015 có quy định hoàn toàn mới về những trường hợp đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh.
Cụ thể: Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh được đảo ngược cho bên bị kiện - bên bị kiện phải chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại.
Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Ngoài ra, để tránh bỏ sót các trường hợp mà luật nội dung có quy định về trường hợp không phải chứng minh, Điều 91 có quy định một điều khoản “quét” với nội dung: “Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh”. Trường hợp khác mà pháp luật quy định có thể xem xét đến các nội dung dưới đây.
Trước hết, ta có thể nghiên cứu từ chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định trong BLDS 2005. Theo đó, nếu người bị thiệt hại muốn được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì họ phải chứng minh được 4 yếu tố: có lỗi, có hành vi trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái luật và thiệt hại. Lỗi là yếu tố bắt buộc phải chứng minh nếu muốn được bồi thường thiệt hại.
Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Có lẽ các nhà lập pháp đã dựa vào học thuyết cổ điển để xây dựng nên quy định này.
Theo học thuyết cổ điển, “cần phải có một sự quá thất (có lỗi) mới có trách nhiệm dân sự”. Nghĩa là, người bị thiệt hại muốn được bồi thường thì phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, học thuyết này có hạn chế có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thiệt hại.
Bởi vì, trong nhiều trường hợp, sự kiện gây thiệt hại xảy ra nhưng người bị thiệt hại không thể chứng minh được lỗi của người gây thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra mà không chủ thể nào có lỗi. Do đó, “nếu buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường của nạn nhân”.
Hiện nay, để khắc phục những bất cập trên, các nhà lập pháp đã tiếp thu tinh thần của học thuyết trách nhiệm pháp lý khách quan (lý thuyết rủi ro). Học thuyết này cho rằng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của bất cứ chủ thể nào.
Tinh thần trên đã được cụ thể hóa tại Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Với quy định này, BLDS 2015 đã nhấn mạnh vai trò của hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Sự thay đổi này là hợp lý, bởi lỗi luôn gắn với hành vi trái pháp luật. Tức là không cần chứng minh lỗi mà chỉ cần chứng minh hành vi gây thiệt hại là đủ.
Nói cách khác, người bị thiệt hại chỉ cần xác định được hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật thì đương nhiên xác định được yếu tố lỗi của người gây ra thiệt hại. Như vậy, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ cần 3 điều kiện: có thiệt hại thực tế xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái luật và thiệt hại thực tế xảy ra.
So sánh các quy định về chế định bồi thường thiệt hại trong hai bộ luật có thể thấy được sự thay đổi rõ rệt về tư duy lập pháp. Và không thể phủ nhận sự thay đổi mạnh mẽ đó có tác động rất lớn đến chế định chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự - đặc biệt là đối với quyền chứng minh của đương sự.
Nếu theo quy định của BLDS 2005, khi nguyên đơn khởi kiện ra tòa, muốn được bồi thường thiệt hại, nguyên đơn bắt buộc phải chứng minh được bị đơn có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho mình. Điều này là không công bằng, bởi có những trường hợp nguyên đơn không thể chứng minh được lỗi của bị đơn không phải vì thiếu chủ động trong hoạt động thu thập chứng cứ mà do những nguyên nhân khách quan mang lại. Không có chứng cứ chứng minh lỗi đồng nghĩa với khả năng tranh tụng của đương sự rất hạn chế. Và điều đương nhiên là đương sự sẽ không có đủ cơ sở để thuyết phục tòa án bảo vệ quyền lợi của mình.
Với quy định người bị thiệt hại không cần chứng minh yếu tố lỗi trong quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS 2015 đã tạo ra cơ sở cho phép đương sự không phải chứng minh yếu tố lỗi khi yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Với quy định của BLDS 2015, khi khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nguyên đơn không cần cung cấp những tài liệu, chứng cứ chứng minh lỗi của bị đơn.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn rằng, nguyên đơn chỉ được loại trừ nghĩa vụ chứng minh đối với yếu tố lỗi, nếu muốn được bồi thường thiệt hại, nguyên đơn vẫn phải chứng minh các yếu tố khác như: có thiệt hại thực tế xảy ra, có hành vi trái luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái luật và thiệt hại.
Bên cạnh nguyên lý trên, trong hệ thống pháp luật dân sự còn có một nguyên lý rất độc đáo cho phép nguyên đơn có quyền loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh.
Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi 2009) về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy trình sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ trong trường hợp sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ là sản phẩm mới...
Như vậy, với việc cụ thể hóa tinh thần của hai học thuyết: trách nhiệm pháp lý khách quan trong pháp luật dân sự và đảo nghĩa vụ (hay chuyển nghĩa vụ) chứng minh trong pháp luật sở hữu trí tuệ, thiết nghĩ pháp luật tố tụng dân sự cần có những ghi nhận để đảm bảo sự tương thích với pháp luật nội dung. Mặt khác, từ những nghiên cứu trong pháp luật nội dung, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và đa chiều về về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
Những tình tiết, sự kiện đương sự không phải chứng minh
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, khi những tình tiết, sự kiện mà đương sự đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của mình được các đương sự khác thừa nhận hoặc ngay bản thân tình tiết, sự kiện đó đã hàm chứa sẵn giá trị chứng minh thì đương sự có thể được loại trừ nghĩa vụ chứng minh. Thực tế, quy định này nhằm loại bỏ những hoạt động chứng minh không cần thiết có thể làm mất thời gian của đương sự và tòa án.
Thứ nhất, nhóm tình tiết, sự kiện mà bản thân nó đã chứa đựng sự thật khách quan, bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được tòa án thừa nhận (phải là những tình tiết, sự kiện có tính khách quan). Những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoặc những tình tiết, sự kiện đã được ghi nhận trong văn bản công chứng, chứng thực hợp pháp.
Thực tế cho thấy, do sai lầm trong hoạt động công chứng, chứng thực hoặc việc ngụy tạo văn bản công chứng, chứng thực đã làm cho giá trị khách quan của văn bản này không được bảo đảm. Để khắc phục hạn chế đó cũng như bảo đảm sự công bằng trong hoạt động chứng minh của nguyên đơn, Điều 92 BLTTDS 2015 bổ sung quy định: “Nếu có dấu hiệu nghi ngờ tính đúng đắn của văn bản công chứng, chứng thực thì thẩm phán có quyền yêu cầu đương sự hoặc cơ quan công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính”.
Thứ hai, là nhóm những tình tiết, sự kiện mà bị đơn thừa nhận hoặc không phản đối (trong trường hợp vụ án có người đại diện tham gia thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện).
Có thể thấy, quy định tại Điều 92 BLTTDS 2015 có nhiều điểm tương đồng với quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước. Đơn cử, theo Điều 61 BLTTDS Liên bang Nga, những tình tiết, sự kiện sau không cần phải chứng minh đó là: những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết; những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật…
Hay Điều 179 BLTTDS Nhật Bản quy định: Những tình tiết đã được các bên thừa nhận tại tòa án thì không phải chứng minh. Trong trường hợp việc thừa nhận tại phiên tòa là ép buộc thì đương sự có quyền rút lại việc thừa nhận đó.
Tuy nhiên, có một số nội dung quy định trong khoản 2 Điều 92 BLTTDS 2015 cần được bàn thêm:
Một là, trong trường hợp đương sự đã thừa nhận những tình tiết, sự kiện mà bên kia đưa ra nhưng tại phiên tòa bị đơn lại không thừa nhận hoặc cho rằng sự thừa nhận trước đó là do bị ép buộc thì nó có còn giá trị chứng minh hay không?
Hai là, trong trường hợp những tình tiết, sự kiện đương sự đưa ra đã được các đương sự khác đồng ý, nhưng sự thừa nhận này lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của người thứ ba thì việc thừa nhận đó có giá trị hay không?
Thực tế đã chứng minh quy định tại khoản 2 Điều 92 còn bộc lộ những hạn chế, tuy nhiên qua nhiều lần sửa đổi, dường như nhà lập pháp vẫn chưa có quy định bổ sung để giải quyết hạn chế này. Vụ án dưới đây sẽ là một minh chứng cho lập luận trên.
Ông Thiệt và bà Phô sinh được 14 người con, trong đó 7 người đã chết. Hiện 7 người còn sống bao gồm: bà Hồng, bà Trinh, bà Hào, ông Phước, ông Chiến, ông Tuyến, ông Phương. Ông Thiệt và bà Phô là chủ sở hữu bất động sản tọa lạc tại quận 6 - thành phố Hồ Chí Minh. Do ông Thiệt chết không để lại di chúc nên giữa bà Phô và các con nảy sinh tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế của ông Thiệt. Bà Phô, bà Hào, bà Trinh, ông Tuyến đã khởi kiện ông Chiến và ông Phương yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Thiệt.
Trong quá trình tố tụng, bà Phô khai rằng bà và ông Thiệt sinh được 14 người con, trong đó 7 người đã chết nên bà yêu cầu không chia thừa kế cho 7 người con này. Các đương sự khác đều thừa nhận lời khai của bà Phô là chính xác. Dựa vào lời khai của bà Phô và các đương sự, cả tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều chỉ chia thừa kế cho 8 người gồm bà Phô và 7 người con.
Sau khi có bản án phúc thẩm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị giám đốc thẩm. Hội đồng giám đốc thẩm nhận định: Ciệc tòa án các cấp không xem xét xác minh làm rõ việc 7 người con của ông Thiệt và bà Phô đã chết thì họ chết năm nào, khi chết có vợ và con chưa? Có ai còn sống, hiện đang sống ở đâu…, là vi phạm thủ tục tố tụng? Theo đó, hướng giải quyết là hủy bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm để yêu cầu xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, trong vụ án trên, để loại bỏ quyền được hưởng di sản thừa kế của một số người đã chết, bà Phô và các đương sự phải cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh thực tế những người này đã chết. Khi chưa có những chứng cứ xác thực về sự kiện chết của 7 người này thì không thể khẳng định chắc chắn rằng họ đã chết.
Trong trường hợp này, sự kiện bà Phô đưa ra mặc dù được các đương sự khác thừa nhận nhưng vẫn cần phải chứng minh do nó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác.
Như vậy, cần nhận thức rằng không phải mọi sự thừa nhận của đương sự đều có giá trị chứng minh. Thiết nghĩ, pháp luật tố tụng dân sự cần có hướng dẫn bổ sung về trường hợp này.
ThS. Vũ Hoàng Anh