Ảnh minh họa.
Chuyển đổi kinh tế số ở Việt Nam
Trong thời gian qua đã có những thay đổi đáng kể trong cách cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp kết nối với nhau. Dựa trên sự phổ biến của mạng xã hội, các doanh nghiệp đã thiết lập mạng lưới kinh doanh của riêng mình để kết nối các nhà cung cấp, khách hàng và hệ thống nội bộ vượt ra khỏi các biên giới, vùng lãnh thổ. Sự gia tăng khả năng truy cập internet toàn cầu cho phép liên kết ngay lập tức hàng tỉ người và vô số doanh nghiệp trên khắp thế giới. Điều này cho phép nền kinh tế số phát triển và thịnh vượng trong thế kỷ 21, tạo cơ hội cho mọi người trao đổi, thực hiện các ý tưởng đổi mới trên khắp thế giới. Nền kinh tế toàn cầu dựa vào các dòng hàng hóa vật chất và tài chính trong thế kỷ 20 đã chững lại hoặc suy giảm và nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu trong thế 21 đang được định nghĩa lại bởi các nguồn dữ liệu và thông tin.
Ở Việt Nam, “nền kinh tế số đang trên đà bùng nổ và trở thành thị trường tăng trưởng nhanh thứ hai tại Đông Nam Á sau Indonesia. Giá trị nền kinh tế số đã đạt 12 tỉ đô la Mỹ năm 2019 với mức tăng trưởng trung bình đạt 38% một năm kể từ năm 2015 và dự kiến sẽ đạt 43 tỉ đô la Mỹ vào năm 2025. Với tổng giá trị thương mại điện tử qua internet tại Việt Nam đạt 5% GDP trong năm 2019, ước tính khoảng 61 triệu người Việt online và thời gian sử dụng internet trên thiết bị thông minh trung bình khoảng 03 tiếng 12 phút mỗi ngày. Việt Nam hướng tới mở rộng nền kinh tế số, đạt khoảng 20% giá trị GDP vào năm 2025”(1). Cùng với Chính phủ số, xã hội số, kinh tế số là một trong ba trụ cột chính và là trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia, được đánh giá sẽ tạo ra sự tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chung đồng thuận về khu vực số, sản phẩm và giao dịch số, hoặc đơn giản định nghĩa về nền kinh tế số nói riêng (IMF, 2018)(2). Các quan điểm về kinh tế số hầu hết đều gắn nền kinh tế với công nghệ kỹ thuật số. Chẳng hạn, “nền kinh tế kỹ thuật số là sự kết hợp giữa điện toán kỹ thuật số và nền kinh tế và là một thuật ngữ chung mô tả cách các hoạt động kinh tế truyền thống (sản xuất, phân phối, thương mại) đang được chuyển đổi bởi internet, world wide web và công nghệ chuỗi khối”(3); hay “nền kinh tế số có thể được gắn với việc sử dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại như robot, trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data) và in ba chiều (3D)”(4). Kinh tế số có một số đặc điểm như: sử dụng các dữ liệu được số hóa giúp cho việc đo lường, theo dõi và phân tích để đưa ra quyết định tốt hơn; có tính kết nối cao, tạo ra mối liên kết tài sản, nhà cung cấp, người lao động và các bên liên quan bằng truyền thông không dây cho phép mọi người đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu, từ đó cải thiện tính an toàn, hiệu quả và khả năng hiển thị trong toàn doanh nghiệp; mang tính chia sẻ, tăng khả năng hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng đồng thời cá nhân hóa khách hàng, giảm thiểu các khâu trung gian khi cho phép các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ tạo ra mối quan hệ trực tiếp hơn giữa người mua và người bán mà bỏ qua người trung gian, loại bỏ các trung gian hoặc kênh không cần thiết. Một hệ sinh thái đơn giản hóa sẽ ít “ma sát” hơn và hạ thấp rào cản gia nhập đối với người chơi ở một phần khác của chuỗi giá trị. Khách hàng đã được tương tác, mua hàng và nhận câu trả lời cho các thắc mắc hay thông tin cần thiết từ sản phẩm/dịch vụ, giá cả… khi họ muốn, ở nơi họ muốn, theo cách đáp ứng nhu cầu của họ bất cứ lúc nào. Như vậy, có thể hiểu kinh tế số là dòng hàng hóa, dịch vụ và tài chính toàn cầu thông qua các phương tiện công nghệ điện toán kỹ thuật số không bị ràng buộc bởi những người nội trú quốc gia.
Với các đặc trưng trên, kinh tế số đang thay đổi cuộc sống của con người, mang đến những lựa chọn thuận tiện, nhanh chóng và giá trị hơn bao giờ hết. Nó đang chuyển đổi xã hội với sự gia tăng hiệu quả, phát triển kinh tế và cải thiện khả năng giải quyết vấn đề, các lợi ích giá trị gia tăng thu được có thể tác động tích cực đến lợi nhuận của các nhà sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế số ngăn chặn sự gián đoạn và tự động hóa các quy trình làm tăng năng suất, mở rộng thị trường và hình thành các ngành nghề mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của kinh tế số, các rủi ro an ninh mạng, rủi ro về lao động không đáp ứng được sự phát triển của công nghệ, rủi ro về quyền riêng tư các dữ liệu thông tin cũng là môi trường để tội phạm mới có xu hướng tận dụng và phát triển. Việc nhận diện các loại tội phạm điển hình, đánh giá các thách thức của công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm này trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế số là cơ sở để hạn chế, kiểm soát và phòng, ngừa tội phạm, tạo điều kiện cho kinh tế số phát triển lành mạnh, bền vững, mang lại chuỗi giá trị và sự phát triển của xã hội.
Nhận diện tội phạm trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế số
Với sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế toàn cầu vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vùng lãnh thổ đã tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong chuỗi sản xuất - cung ứng - tiêu dùng. Các quốc gia nhận thức rõ nguy cơ rủi ro từ tội phạm kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh sự lưu chuyển dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu đã tạo ra các tội phạm kinh tế xuyên quốc gia với các dạng tội phạm gắn với công nghệ cao. Có thể nhận biết các tội phạm trong nền kinh tế số với đặc điểm chung nổi bật là: thực hiện trên không gian ảo nhưng thiệt hại là thật; mang tính trí tuệ rất cao; không ở trạng thái tĩnh mà luôn ở xu thế không ngừng biến đổi; phương thức thủ đoạn phạm tội mới, không còn đơn thuần theo các thủ đoạn truyền thống trước kia mà mang tính thâm nhập, mô phỏng, lây lan từ các nền kinh tế có sự chia sẻ với nhau theo kiểu phản ứng lan tỏa, dây chuyền. Tuy nhiên, với mỗi nhóm tội phạm khác nhau sẽ có những đặc thù riêng, bài viết tập trung vào nhận diện một số nhóm tội phạm điển hình.
Các tội phạm liên quan đến tài chính như rửa tiền, tham nhũng
Sự phát triển của công nghệ cho phép con người tiếp cận hầu hết mọi cơ hội thông qua internet, thói quen dùng tiền mặt dần được chuyển sang các giao dịch bằng internet banking với các đặc điểm: tính ẩn danh cao nên thông tin của cá nhân/doanh nghiệp thực hiện và thụ hưởng không dễ dàng xác định, đặc biệt đối với những ngân hàng tại một số quốc gia có cơ chế tuyệt đối giữ bí mật của khách hàng; bên cạnh đó là tính bảo mật cao và tài sản dưới dạng số, thực hiện giao dịch đơn giản không cần đến ngân hàng để xác minh danh tính mà có thể thực hiện vượt ra khỏi vùng biên giới lãnh thổ quốc gia, vào bất kỳ thời điểm nào mà họ muốn. Với các ưu việt này, công nghệ cao bị lạm dụng để rửa tiền nhằm che đậy nguồn gốc của tất cả các khoản tiền và “rửa sạch” những đồng tiền đó bằng các giao dịch hợp pháp hoặc qua hệ thống tài chính quốc gia và quốc tế. Xác định những hệ quả và tác hại do hoạt động rửa tiền, Việt Nam đã rất tích cực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng chống rửa tiền như: năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Nhóm châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG). Theo đó, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thành viên của APG về thực hiện 40 Khuyến nghị về chống rửa tiền và 09 Khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ cho khủng bố của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Tiếp đó, nội luật hóa và thực hiện nội dung của các cam kết, năm 2012 Việt Nam đã ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền đầu tiên thay thế cho Nghị định số 74/2005/ NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền. Đến nay là Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 là cơ sở pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, minh bạch hóa nền tài chính quốc gia. Đối với người có đủ cơ sở để biết tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp mà cố ý thực hiện che giấu nguồn gốc của tài sản đó thì đều bị coi là phạm tội rửa tiền, bị xử lý theo Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Các tội phạm gây ảnh hưởng đến trật tự quản lý xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu như đánh bạc, lừa đảo hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác
Quyền riêng tư của thông tin liên lạc là điều cần thiết để bảo đảm rằng dữ liệu không thể bị sửa đổi hoặc bị lộ trong quá trình chuyển tiếp. Môi trường phân tán mang đến khả năng một bên thứ ba có thể thực hiện tội phạm mạng bằng cách giả mạo dữ liệu khi dữ liệu di chuyển giữa các trang. Đối tượng sử dụng công nghệ cao để tấn công sửa đổi dữ liệu được cung cấp chính thức như các thông tin giao dịch mua bán, chuyển tiền… nhằm chặn dữ liệu đang truyền và thay đổi các phần của dữ liệu đó trước khi truyền lại. Các trường hợp tiền trong tài khoản tự động được chuyển qua tài khoản khác không được sự cho phép của chủ tài khoản là một dạng chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng trong thời gian qua.
Các tội phạm liên quan đến gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh như buôn lậu, buôn bán hàng giả và trốn thuế
Các tội phạm gian lận thương mại và cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến kinh tế số thường sử dụng nhiều thủ đoạn phổ biến như: lừa đảo trực tuyến (online fraud) như gửi email lừa đảo, tạo trang web giả mạo để lừa đảo thông tin cá nhân và tài chính của người dùng, hoặc sử dụng các hình thức tấn công điện tử để chiếm đoạt tài khoản và thông tin người khác; khai thác dữ liệu cá nhân (data breaches) bằng việc xâm nhập vào hệ thống để lấy cắp thông tin cá nhân và tài khoản của người khác, sau đó sử dụng thông tin này cho mục đích gian lận; tạo ra các quảng cáo giả mạo hoặc không chất lượng để tăng lượt xem hoặc nhấp chuột, dẫn đến chi phí quảng cáo không hiệu quả; gian lận trong giao dịch thương mại điện tử (e-commerce fraud) như mua hàng trực tuyến bằng thông tin tài khoản giả mạo hoặc chiếm đoạt thông tin thanh toán của người khác để tiến hành giao dịch gian lận.
Một số thách thức phòng chống tội phạm trong thời kỳ kinh tế số
Phòng chống tội phạm công nghệ cao đối mặt với nhiều thách thức phức tạp và liên quan đến tính toàn cầu của công nghệ. Dưới đây là một số thách thức cơ bản gắn liền với đặc thù của nền kinh tế số với nhiều biến đổi nhanh:
Thứ nhất, tội phạm trong thời kỳ kinh tế số có phạm vi hoạt động trên toàn cầu, không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia. Điều này gây khó khăn cho việc truy tìm, truy cứu và xử lý tội phạm cũng như khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp giữa các quốc gia chưa có hiệp định tương trợ tư pháp.
Thứ hai, tội phạm trong thời kỳ kinh tế số có kỹ thuật tinh vi, bao gồm việc sử dụng mã độc, mã hóa thông tin và thay đổi vị trí truy cập. Đồng thời công nghệ tạo ra quỹ đạo mới của tội phạm, bên cạnh các tội phạm truyền thống thì tội phạm trực tuyến, tội phạm ẩn danh, làm cho việc định vị, điều tra và truy tìm trở nên phức tạp hơn trong khi đó thiệt hại bởi tội phạm gây ra lớn cả về giá trị và số lượng nạn nhân.
Thứ ba, nạn nhân tội phạm trong nền kinh tế số dễ bị xâm hại bởi tính thiếu hiểu biết. Việt Nam là một nước đang phát triển với trình độ dân trí không đồng đều, dễ trở thành nạn nhân của tội phạm công nghệ cao. Các nạn nhân thường không nhận biết được các mối đe dọa từ an ninh mạng và thường dễ dàng trở thành nạn nhân của các tình huống lừa đảo, tấn công mạng hoặc vi rút. Đặc biệt với thói quen dùng internet, thương mại điện tử, giao dịch tài chính điện tử, dùng mạng xã hội, làm việc qua các nền tảng mạng… nên các thông tin cá nhân và tài sản thường được lưu trực tuyến như tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng, số điện thoại, địa chỉ liên hệ, email… Trong khi đó, họ lại không có thói quen và hiểu biết về bảo mật thông tin cá nhân nhưng lại có niềm tin vào các thông tin giả mạo tinh vi (email giả mạo, trang web lừa đảo…) khiến họ dễ dàng trở thành mục tiêu của các tội phạm công nghệ cao.
Thứ tư, tội phạm trong thời kỳ kinh tế số sử dụng công nghệ cao để phạm tội trong khi đó công nghệ lại phát triển nhanh chóng và thường xuyên thay đổi. Điều này tạo ra sự khó khăn trong việc duy trì các biện pháp bảo mật hiệu quả để ngăn chặn các tấn công mới, đồng thời là thách thức đối với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình phát hiện và xử lý tội phạm.
Thứ năm, thiếu hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh kinh tế số bởi tội phạm này thường có tác động và phạm vi lan rộng vượt qua biên giới lãnh thổ quốc gia. Với sự hợp tác, các quốc gia sẽ cùng nhau chia sẻ, hỗ trợ và phát triển giải pháp kỹ thuật trong đấu tranh, phòng chống tội phạm. Mặc dù, phòng chống tội phạm công nghệ cao trong nền kinh tế số yêu cầu sự hợp tác giữa các quốc gia, nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng để đạt được sự thống nhất và hợp tác.
Các giải pháp phòng chống tội phạm trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế số
Các quy tắc hiện hành cho hoạt động của môi trường điện tử cho phép bảo đảm tính ẩn danh của các hành động trên mạng, điều này làm phức tạp đáng kể việc xác định tội phạm và cản trở việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tội phạm đó. Có ba yếu tố dẫn đến hầu hết các hành vi phạm tội là trước đó đã từng có người thực hiện tội phạm này; người thực hiện tội phạm có các thông tin về đối tượng phạm tội và người phạm tội đã có sự hỗ trợ, giúp đỡ, xúi giục hoặc đồng phạm. Do đó, để phòng chống tội phạm trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế số cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Các biện pháp phòng ngừa chung
Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ đã nhấn mạnh: “thể chế cần đi trước một bước khi có thể. Chính phủ kiến tạo thể chế, chính sách nhằm sẵn sàng chấp nhận và thử nghiệm cái mới một cách có kiểm soát; hình thành văn hóa chấp nhận và thử nghiệm cái mới; làm điểm, làm nhanh, sau đó đánh giá và nhân rộng; thúc đẩy phát triển công nghiệp sáng tạo”(5). Qua đó cho thấy quyết tâm và định hướng của Nhà nước ta trong chuyển đổi nền kinh tế số. Các cơ quan nhà nước với các biện pháp hành chính, kinh tế, xã hội và các chế tài hình sự thực hiện phòng ngừa ở cấp độ toàn xã hội. Trong đó, các biện pháp chủ yếu nhằm giải quyết một loạt các vấn đề xã hội làm phát sinh tội phạm trong nền kinh tế kỹ thuật số. Mục đích của việc áp dụng các biện pháp ở cấp độ này nhìn chung không phải là tác động trực tiếp đến các quá trình phạm tội mà tập trung giải quyết các vấn đề xã hội giúp loại bỏ các điều kiện (và trong một số trường hợp là nguyên nhân) dẫn đến việc thực hiện các loại tội phạm cụ thể. Các biện pháp tập trung ở: i) Các biện pháp kinh tế, Nhà nước đầu tư phát triển các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế kỹ thuật số quốc gia; ii) Các biện pháp mang tính xã hội nhằm hạn chế sự phân tầng trong xã hội như tạo công ăn việc làm, đào tạo bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng điều kiện kinh tế số…; iii) Các biện pháp lập pháp, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch, xóa bỏ các khoảng trống pháp lý cản trở hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật trong cuộc chiến chống tội phạm như hoàn thiện pháp luật về tài sản ảo, hạn chế các hành vi rửa tiền thông qua việc quản lý, báo cáo, kiểm soát các giao dịch có dấu hiệu bất thường…; Nhà nước ký kết các điều ước quốc tế nhằm đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Việc tham gia các điều ước quốc tế là cần thiết vì không có ranh giới lãnh thổ trên internet và tội phạm mạng đang chuyển sang cấp độ có tổ chức xuyên quốc gia.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tài sản ảo và các hành vi phạm tội liên quan đến tài sản ảo, tội phạm công nghệ cao
Trong nền kinh tế số, tài sản ảo trở thành loại tài sản phổ biến và ngày càng rộng rãi và sẽ nhanh chóng trở thành một phương thức rửa tiền trong thời kỳ mới thông qua các hoạt động cung ứng dịch vụ, trung gian thanh toán. Do đó, cần bổ sung quy định về loại tài sản này làm cơ sở pháp lý đánh giá tính hợp pháp của các giao dịch; đồng thời bổ sung hành vi rửa tiền đối với tài sản ảo nói chung và tiền ảo nói riêng vào Luật Phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, thực hiện cơ chế quản lý, báo cáo, kiểm soát các giao dịch “đáng ngờ” một cách hiệu quả, tránh hình thức, bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, cần đánh giá hành vi rửa tiền thông qua công nghệ, sử dụng tiền ảo, tiền điện tử, tài sản ảo là một tội danh độc lập cần bổ sung trong Bộ luật Hình sự để thấy được quan điểm nghiêm khắc của Nhà nước trước các hành vi rửa tiền đặc biệt này.
Tăng cường công tác quản lý, đấu tranh phòng ngừa tội phạm
Lực lượng công an với chuyên môn nghiệp vụ tăng cường nắm tình hình, chủ động, nhanh chóng phát hiện các dạng hành vi phạm tội mới tinh vi liên quan đến công nghệ cao, tham mưu các chủ trương giải pháp trong điều hành kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích dân tộc và bảo đảm an ninh trong ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do FTA song phương, đa phương. Thường xuyên thực hiện các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm công nghệ cao liên quan đến các hành vi buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, trốn thuế, rửa tiền, đánh bạc, lừa đảo và các hành vi chiếm đoạt tài sản bằng công nghệ cao khác. Qua đó, góp phần tạo môi trường kinh tế số an toàn, tin cậy cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước đầu tư, thực hiện kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức nhận diện tội phạm trong bối cảnh kinh tế số nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức của người dân về các tội phạm này. Có thể thực hiện thông qua một số biện pháp: tổ chức các buổi hội thảo, khóa học trực tuyến hoặc ngoại tuyến về an ninh mạng, pháp luật trực tuyến, cách phát hiện và ngăn chặn tội phạm công nghệ cao; xây dựng các tài liệu hướng dẫn; sử dụng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, trang web, quảng cáo, video và poster để truyền tải thông điệp về tội phạm công nghệ cao và cách bảo vệ mình.
Các giải pháp khác
Để phòng ngừa các nhóm tội phạm nêu trên trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế số, Nhà nước cân nhắc thành lập đơn vị đặc nhiệm nằm trong các lực lượng mà lĩnh vực chuyên môn quản lý của họ có nguy cơ cao hoặc thường xuyên xảy ra tội phạm như thành lập đơn vị đặc nhiệm chuyên trách chống rửa tiền qua biên giới trong cơ quan hải quan. Bên cạnh đó, thường xuyên tuyên truyền, công bố những quy định mới yêu cầu các ngân hàng, công ty bất động sản, nhân viên tư vấn thuế, các doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh tài chính khác khi nhận thấy những hiện tượng nghi ngờ rửa tiền phải báo cáo ngay cho cơ quan chuyên trách, trong trường hợp khẩn cấp hơn có thể báo trực tiếp với cơ quan công an trên địa bàn.
Tóm lại, kinh tế số làm thay đổi đời sống và chất lượng cuộc sống của con người trên toàn cầu nhưng kéo theo hệ lụy về quỹ đạo tội phạm mới. Công tác phòng chống tội phạm trong bối cảnh kinh tế số có nhiều điểm mới với nhiều khó khăn, thách thức hơn bởi tính ẩn danh, tính tinh vi, nhanh chóng và thiệt hại lớn cả về giá trị tài sản và số lượng nạn nhân. Tuy nhiên, nắm bắt được những thách thức này để Nhà nước, các chủ thể trong xã hội cùng thực hiện các giải pháp lâu dài và ngắn hạn nhằm bảo đảm môi trường kinh tế số an toàn, bền vững.
(1)Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, Báo cáo Kinh tế số và chuyển đổi số tại Việt Nam, 2020, tr.1. (2) IMF. 2018. Measuring the Digital Economy. (3) https://en.wikipedia.org/wiki/Digital_economy. (4) Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, tlđd, tr.3. (5) https://baochinhphu.vn/ky-4-can-hoan-thien-cac-quy-dinh-phap-luat-trong-kinh-te-so-102291138.htm, ngày 18/8/2023. |
TS. VŨ THỊ PHƯỢNG
Trường Đại học Công đoàn