Năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đây là một quyết sách lịch sử, mang tính cách mạng, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho dân tộc. Nhìn lại chặng đường gần 40 năm qua, chúng ta nhận thấy rằng công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn và toàn diện.
Từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh và rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, Việt Nam đã chuyển đổi thành công sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao trong nhiều năm liên tục, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Quy mô, tiềm lực của nền kinh tế không ngừng được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ hộ nghèo giảm sâu. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
Về chính trị - xã hội, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy. Vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Nền tảng cho những thành tựu này chính là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”. Cương lĩnh đã xác định những định hướng lớn, những nguyên tắc cơ bản và những mục tiêu chiến lược cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vững bước trên con đường đã chọn.
Nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng (2021 – 2026) diễn ra trong bối cảnh thế giới nhiều biến động và thách thức lớn từ đại dịch Covid-19; với sự đoàn kết và quyết tâm cao, Đảng đã lãnh đạo toàn hệ thống chính trị kiểm soát thành công dịch bệnh, chuyển sang trạng thái “thích ứng an toàn, linh hoạt” để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm và tăng trưởng GDP phục hồi mạnh mẽ. Đời sống nhân dân và an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm, chăm lo. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt, không có vùng cấm, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu quan trọng, khẳng định hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng.
Để tạo ra những đột phá chiến lược, Bộ Chính trị đã ban hành một loạt các nghị quyết quan trọng, được xem là “bộ tứ trụ cột” cho sự phát triển trong giai đoạn mới đó là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về “đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW về “đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về “phát triển kinh tế tư nhân”. Việc triển khai các Nghị quyết này gắn liền với tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Một bộ máy tinh gọn, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được thực thi nhanh chóng, minh bạch và thành công.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và dự báo tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Giai đoạn 2026 - 2031, giai đoạn của nhiệm kỳ Đại hội XIV, có ý nghĩa bản lề trong việc hiện thực hóa các mục tiêu đó. Các phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm bao gồm:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm là sửa đổi, bổ sung các luật pháp liên quan đến đất đai, đầu tư, kinh doanh, tạo môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, cạnh tranh để khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là từ khu vực kinh tế tư nhân. Giới luật sư và các cơ quan tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc góp ý xây dựng và bảo đảm thi hành pháp luật.
Ba là, phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu. Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số. Ưu tiên nguồn lực đầu tư cho các ngành công nghệ cao, công nghệ xanh, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cao.
Bốn là, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, nâng cao đời sống nhân dân. Coi con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giàu tính nhân văn. Bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Năm là, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại gần 40 năm đổi mới và 35 năm thực hiện Cương lĩnh đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu to lớn đạt được là nền tảng vững chắc để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với khí thế và quyết tâm cao hơn. Việc quán triệt, triển khai hiệu quả các quyết sách chiến lược, đặc biệt là “bộ tứ trụ cột” do Bộ Chính trị ban hành, sẽ mở ra cơ hội hiện thực hóa khát vọng về một đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong tiến trình ấy, đội ngũ luật sư cùng ngành tư pháp giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân.
Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU
Uỷ viên thường vụ, Chủ nhiệm Cơ quan Truyền thông
Liên đoàn Luật sư Việt Nam

