/ Bút ký Luật sư
/ Những dấu mốc đáng nhớ trong hành trình 80 năm nghề luật sư ở Việt Nam

Những dấu mốc đáng nhớ trong hành trình 80 năm nghề luật sư ở Việt Nam

09/10/2025 06:39 |

(LSVN) - Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL về việc thành lập đoàn thể luật sư. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Chính quyền cách mạng quy định đặt nền móng về sự ra đời của nghề luật sư trong chế độ mới.

Trước đó, ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 33C về tổ chức Tòa án Quân sự, trong đó Điều V quy định “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”.

Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và các văn bản tiếp theo xây dựng chế độ bào chữa viên ở miền Bắc. Sáu tháng sau, Sắc lệnh số 69/SL được thay thế bởi Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 (sửa đổi Điều 1 Sắc lệnh số 69/SL) mở rộng quyền bào chữa cho các bị cáo trước các tòa án. Hai Sắc lệnh 69/SL và 144/SL cho thấy quyền bào chữa không chỉ được thực hiện ở các vụ án hình sự mà còn ở vụ án dân sự, kinh tế. Chế độ bào chữa viên được tiếp tục thực hiện sau khi chính quyền cách mạng giành thắng lợi vào năm 1954 ở miền Bắc.

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu trao Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước tặng Liên đoàn Luật sư Việt Nam tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam. Ảnh: LCT.

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu trao Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước tặng Liên đoàn Luật sư Việt Nam tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam. Ảnh: LCT.

Năm 1963, một văn phòng luật sư thí điểm đầu tiên ở miền Bắc được thành lập, đặt tên là “Văn phòng luật sư Hà Nội”. Năm 1974, Tòa án nhân dân Tối cao chuyển giao “Văn phòng luật sư” sang Ủy ban Pháp chế của Chính phủ (được thành lập năm 1972) để quản lý theo chức năng quy định tại Nghị định số 190/CP ngày 09/10/1972.

Sau ngày 30/4/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kế thừa thực tế ở miền Bắc, tiếp tục cho thực hiện chế định bào chữa viên nhân dân ở các tỉnh miền Nam, vì các Luật sư đoàn ở miền Nam ra đời từ chế độ cũ đều đã bị giải tán. Việc thực hiện quyền bào chữa được triển khai trên cơ sở Điều 4 Sắc luật số 01-SL/76 ngày 18/3/1976 của Hội đồng Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và tinh thần Thông tư số 06-BTP/TT ngày 11/6/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Ngày 31/10/1983, Bộ Tư pháp có Thông tư số 691/QLTPK hướng dẫn, quy định: Ở TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP. Hải Phòng… đã có tổ chức luật sư biện hộ thì tổ chức lại về tổ chức quản lý chặt chẽ hơn; ở các tỉnh khác và đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nếu có đủ điều kiện về nhân sự và được Ủy ban nhân dân tỉnh, đặc khu cho phép thì thành lập “Đoàn bào chữa viên nhân dân tỉnh”.

Ngày 24/11/1984, Đại hội thành lập Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội với 16 luật sư thành viên đầu tiên. Đây là Đoàn luật sư đầu tiên được thành lập ở Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Pháp lệnh gồm 06 Chương, 25 Điều. Đây là Pháp lệnh đầu tiên quy định về tổ chức, hành nghề luật sư ở Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngày 25/7/2001, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Luật sư (số 37/2001/PL-UBTVQH10). Pháp lệnh gồm 8 chương, 45 điều, đưa chế định luật sư ở nước ta xích gần với thông lệ quốc tế, bằng một Pháp lệnh mới với tên gọi mới, bỏ bớt 2 từ “tổ chức” so với Pháp lệnh năm 1987. Sau khi Pháp lệnh Luật sư năm 2001 có hiệu lực, hàng loạt các văn phòng luật sư, công ty luật ra đời.

Ngày 29/6/2006, Quốc hội thông qua Luật Luật sư, gồm 9 chương, 94 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Luật Luật sư là văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện quy chế nghề luật sư về cả hai phương diện nội dung và hình thức.

Đầu năm 2008, Đề án thành lập Tổ chức luật sư toàn quốc được Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt, trong đó nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tổ chức luật sư toàn quốc và cách thức, trình tự tiến hành lập ra Tổ chức luật sư toàn quốc. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập ra Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất gồm 09 thành viên (sau đó còn 7/9). Trưởng ban Chỉ đạo là Bộ trưởng Bộ Tư pháp cùng các thành viên là thứ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, đại diện Văn phòng Chính phủ, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam và 03 luật sư là chủ nhiệm các Đoàn Luật sư: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.

Ngày 04/6/2008, Hội đồng lâm thời Luật sư toàn quốc ra mắt gồm 15 người (sau đó còn 13/15), do Luật sư Lê Thúc Anh (nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao) làm Chủ tịch.

Ngày 10-12/5/2009 tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất. Tham dự Đại hội có các đại biểu đại diện cho trên 5.300 luật sư trong cả nước. Đại hội đã thông qua quyết định thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam, bầu ra 32 đại biểu vào Hội đồng Luật sư toàn quốc cùng với 61 chủ nhiệm các Đoàn luật sư là thành viên đương nhiên; bầu ra Ban Thường vụ gồm 21 thành viên. Đại hội cũng bầu ra 01 Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch trong số 21 Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Ngày 25/7/2010, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội Luật châu Á - Thái Bình Dương (Lawasia).

Ngày 05/7/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020”. Chiến lược này đề ra mục tiêu đến năm 2020, phát triển số lượng khoảng từ 18.000-20.000 luật sư, đạt tỉ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp; phấn đấu đến năm 2020, phát triển được khoảng 30 tổ chức hành nghề luật sư có quy mô từ 50 đến 100 luật sư; từ 100 luật sư trở lên hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài; và có khoảng 10 tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam có thương hiệu, uy tín trong khu vực và thế giới.

Ngày 20/7/2011, Hội đồng Luật sư toàn quốc ra Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ban hành Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư. Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam gồm Lời nói đầu, 06 chương, 27 quy tắc.

Ngày 27/2/2011, Hội đồng Luật sư toàn quốc thông qua Nghị quyết số 12/NQ-HĐLSTQ quy định luật sư mặc sắc phục theo quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Theo đó, kể từ ngày 10/10/2011, các luật sư bắt buộc phải mặc trang phục thống nhất khi tham gia phiên tòa theo mẫu: áo veston và quần âu màu đen, áo sơ mi màu trắng; cà vạt màu xám lông chuột; huy hiệu có hình biểu tượng logo của Liên đoàn đeo trên ngực trái áo trang phục. Trang phục áp dụng cho cả luật sư nam và luật sư nữ; mùa đông mặc đủ bộ trang phục, mùa hè có thể không mặc áo veston.

Ngày 20/11/2012, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2006. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2012 cùng với việc duy trì các quy định cũ thì đã có những sửa đổi mới, trong đó có việc chuyển giao cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam một số nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Ngày 17/7/2013, tại Lai Châu đã diễn ra Đại hội thành lập Đoàn Luật sư tỉnh Lai Châu. Với 03 luật sư ban đầu, đây là Đoàn luật sư cuối cùng trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập.

Ngày 14/01/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg, lấy ngày 10/10 hằng năm là Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam.

Ngày 25/3/2014, Tạp chí Luật sư Việt Nam - cơ quan ngôn luận của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, diễn đàn của giới luật sư Việt Nam - ra mắt và phát hành số đầu tiên tại Hà Nội. Tiếp đó, ngày 17/5/2017 Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ra mắt và trở thành cơ quan báo chí thứ hai của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Theo chủ trương quy hoạch báo chí của Chính phủ, ngày 21/8/2020 Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 226/QĐ-BTTTT cấp lại Giấy phép hoạt động báo chí, theo đó Tạp chí Luật sư Việt Nam trở thành một cơ quan với hai loại hình báo chí (in và điện tử).

Ngày 22/9/2014, Bộ Chính trị có Kết luận só 102-KL/TW về hội quần chúng, xếp Liên đoàn Luật sư Việt Nam được hưởng chế độ như tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Cụ thể, tiết 2.2 Kết luận 102-KL/TW yêu cầu “về nguyên tắc, trước mắt giữ nguyên các hội đã được xác định là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp… Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hội Xuất bản Việt Nam và Liên đoàn Luật sư Việt Nam được hưởng chế độ như các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp”.

Ngày 17-19/4/2015 tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc nhiệm kỳ II. Tham dự Đại hội có 386 đại biểu đại diện cho 9.436 luật sư và hơn 3.500 người tập sự hành nghề luật sư trong cả nước. Đại hội đã thông qua Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam sửa đổi, bầu ra 95 đại biểu (trong đó có 63 luật sư là chủ nhiệm các Đoàn luật sư là thành viên đương nhiên) vào Hội đồng Luật sư toàn quốc; 21 đại biểu vào Ban Thường vụ; 04 Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam (Chủ tịch và 01 Phó Chủ tịch được kiện toàn sau đó). Bộ máy tổ chức gồm 5 ủy ban và các cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Sau Đại hội, nhiều vấn đề liên quan đến công tác tổ chức, hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn luật sư trong cả nước được thống nhất, điều chỉnh. Trong đó, có những điểm đáng chú ý như: quy định thống nhất thu phí thành viên; các Đoàn luật sư đổi tên “điều lệ đoàn luật sư” thành “nội quy đoàn luật sư”…

Năm 2015, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội Luật sư quốc tế (IBA).

Ngày 13/10/2015, Liên đoàn Luật sư Việt Nam được Đảng và Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

Ngày 13/12/2019, Hội đồng Luật sư toàn quốc ra Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ban hành Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (sửa đổi). Bộ quy tắc này gồm Lời nói đầu, 6 chương với 32 điều (quy tắc).

Ngày 25-26/12/2021 tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc nhiệm kỳ III. Số đại biểu chính thức được triệu tập gồm 548 luật sư (thực tế có 346 luật sư tham dự, do dịch bệnh Covid-19 và vì lý do khách quan). Đại hội đã thông qua Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam sửa đổi, bầu ra 31 Ủy viên Hội đồng Luật sư toàn quốc trong tổng số 93 Ủy viên (chủ nhiệm của 63 Đoàn luật sư là Ủy viên đương nhiên, khi Đại hội diễn ra còn 01 Đoàn luật sư chưa có chủ nhiệm mới); 21 Ủy viên Ban Thường vụ; 06 Ủy viên Thường trực (01 Chủ tịch và 05 Phó Chủ tịch). Bộ máy tổ chức gồm 06 ủy ban và 05 cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Ngày 02/8/2024, Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức lễ vinh danh “Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tiêu biểu” giai đoạn 2021-2023 nhằm ghi nhận và tôn vinh những cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong hoạt động hành nghề luật sư. Đây là lần đầu tiên Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức hoạt động này và đã trao danh hiệu cho 18 luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tiêu biểu.

Từ ngày 01/7/2025, Việt Nam có 34 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, thay vì 63 tỉnh/thành phố, sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh. Theo đó, 63 Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố cũng được sắp xếp thành 34 Đoàn luật sư trong cả nước.

Tính đến ngày 01/10/2025, cả nước có trên 20.000 luật sư và trên 6.000 tổ chức hành nghề luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam là thành viên của Hiệp hội Luật sư quốc tế (IBA), Hiệp hội Luật châu Á - Thái Bình Dương (Lawasia) và có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức luật sư của các nước.

Tài liệu tham khảo

1.  Các báo cáo của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

2.  Liêu Chí Trung, Luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2023.

BẢO HƯƠNG - HOÀNG YẾN

Các tin khác