/ Luật sư - Bạn đọc
/ Những vấn đề pháp lý liên quan đến vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại khu vực đường Cầu Giấy

Những vấn đề pháp lý liên quan đến vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại khu vực đường Cầu Giấy

09/04/2021 02:18 |

(LSVN) - Trong những trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của nghi phạm, Tòa án sẽ phải căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định tâm thần để ra quyết định rằng người đó sẽ được đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh rồi mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hay là sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Ảnh minh họa. 

Sáng ngày 05/4, Công an quận Cầu Giấy, Hà Nội, cho biết đang phối hợp các đơn vị nghiệp vụ Công an TP. Hà Nội điều tra, làm rõ vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại khu vực đường Cầu Giấy.

Trước đó, khoảng 22h đêm ngày 04/4, một nữ công nhân vệ sinh môi trường đang làm việc trước số nhà 302 đường Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy thì bị một nam thanh niên bất ngờ dùng gạch đập liên tiếp đến chết. Sau khi gây án, nghi phạm bỏ trốn khỏi hiện trường.

Cơ quan điều tra bước đầu xác định nghi phạm là Lê Như Toàn (SN 1991, thường trú tổ 17, phường Trung Sơn, TP. Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) có biểu hiện thần kinh. Giữa nghi phạm và nạn nhân không có mâu thuẫn với nhau.

Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam về vấn đề này, Thạc sĩ. Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS cho biết đây là vụ việc hết sức đau lòng, nạn nhân đã bị sát hại một cách dã man, khiến dư luận không khỏi bàng hoàng và xót xa. Hành vi của đối tượng là việc tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, đây là hành vi khách quan của tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (“Bộ luật Hình sự”). Do đó, theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra sẽ phải khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, cũng trách nhiệm pháp lý của đối tượng đã gây án.

Tuy nhiên, theo thông tin ban đầu thì giữa đối tượng và nạn nhân không có quen biết và không có mâu thuân với nhau, khi gây án thì đối tượng có biểu hiện mắc bệnh tâm thần. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra bắt buộc phải ra quyết định trưng cầu giám định về tình trạng tâm thần của đối tượng, để xác định trước, trong và sau thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần hay không? Nếu có thì là bệnh gì và mức độ ảnh hưởng của bệnh lý đó đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng? Qua đó, để xác định tại thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có năng lực trách nhiệm hình sự hay không? cũng như hiện tại thì đối tượng có đủ khả năng làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng hay không?

Căn cứ vào nội dung Kết luận giám định pháp y về tâm thần của cơ quan giám định, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có các hướng giải quyết như sau:

Trường hợp thứ nhất: Trong trường hợp đối tượng không bị mắc bệnh tâm thần, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì đối tượng được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, và bị coi là có lỗi trong khi thưc hiện hành vi phạm tội. Do đó, cơ quan điều tra sẽ tiến hành khởi tố bị can và điều tra, làm rõ trách nhiệm hình sự của đối tượng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người”, với tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội “có tính chất côn đồ”, với loại và mức hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Trường hợp thứ hai: Nếu đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức bị mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Tức là, dù đối tượng có bệnh lý tâm thần và bệnh lý này có thể có những ảnh hưởng nhất định, làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của đối tượng. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có khả năng nhận thức, suy xét, đánh giá và lựa chọn, điều khiển hành vi của mình khi thực hiện tội phạm, thì người này vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” như đã nêu trên. Tuy nhiên trong trường hợp này, đối tượng sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” theo quy định tại điểm q kihoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp thứ ba: Nếu trong khi sát hại nạn nhân mà đối tượng bị mắc bệnh tâm thần, dẫn đến không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì đối tượng sẽ được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, theo quy định tại Điều 8 và Điều 21 Bộ luật Hình sự thì hành vi của đối tượng sẽ không bị coi là tội phạm và đối tượng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 21 Bộ luật Hình sự quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”. Do đó, theo quy định tại Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có thể bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp này, người giám hộ (nếu có) của đối tượng sẽ có trách nhiệm thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân theo quy định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.”

Hiện nay, phần lớn những người mắc bệnh tâm thần đang do gia đình tự giám sát và quản lý. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau đã có nhiều người bệnh không có được sự chăm sóc, quản lý và chữa trị đầy đủ, thậm chí có người còn giấu bệnh hoặc đi lang thang, rất dễ dẫn đến việc họ thực hiện các hành vi gây nguy hiểm, đe dọa đến tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác, làm mất trật tự và an toàn xã hội. Do ảnh hưởng của bệnh lý nên những người mắc bệnh tâm thần có thể thực hiện những việc làm hết sức tàn ác, man rợ, dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng, gây ra tâm lý bất an, lo lắng trong xã hội.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải có những giải pháp phòng ngừa đồng bộ và hiệu quả, đặc biệt là công tác rà soát, nắm địa bàn và lập danh sách người bệnh một cách đầy đủ, kịp thời có những biện pháp quản lý phù hợp và thường xuyên, tránh bỏ lọt người bệnh ngoài xã hội; cũng như có các cơ chế, cách thức phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, lực lượng y tế cơ sở và chính quyền địa phương, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của những người bệnh tâm thần, cũng như sự an toàn cho cộng đồng. Đồng thời, chúng ta cũng phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức về bệnh tâm thần, từ cách nhận biết đến các phương pháp chăm sóc, chữa trị, quản lý người bệnh, phòng ngừa họ thực hiện các hành vi gây hại cho gia đình và cộng đồng. 

Luật sư Nguyễn Tiến Trung, Công ty Luật Trung Nguyễn cũng có những phân tích cụ thể về vụ án. Theo Luật sư Trung, đối tượng Lê Như Toàn chỉ mới đang là người đã từng có tiền sử bị tâm thần chứ chưa hề có một căn cứ nào cho rằng đối tượng đó hiện vẫn đang mắc bệnh tâm thần và cũng không thể khẳng định rằng việc thực hiện hành vi dùng gạch đập vào đầu nữ lao công là hoàn toàn không có khả năng nhận thức. Bởi vì không phải tất cả những người bị mắc bệnh tâm thần đều sẽ bị mất khả năng nhận thức hay khả năng điều khiển hành vi, năng lực hành vi có bị mất hay không còn phải phụ thuộc vào mức độ của bệnh và tính chất của hành vi đã thực hiện. Có một số loại bệnh tâm thần khi mắc phải luôn làm mất năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng lại có những loại bệnh chỉ làm mất năng lực ở một mức độ nhất định và có những loại bệnh lại hoàn toàn không làm mất năng lực nào. Như vậy, để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chỉ có thể phụ thuộc vào nội dung của giám định pháp y tâm thần. Việc giám định pháp y tâm thần không chỉ giúp xác định được rằng người thực hiện hành vi tội phạm có bị mắc bệnh tâm thần hay không mà còn xác định được khi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì người đó có đang ở trong trạng thái mất khả năng nhận thức hay không, nếu có thì mức độ ảnh hưởng của bệnh đã mắc là như thế nào đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.

Dẫn chiếu đến vụ án bệnh nhân tâm thần Nguyễn Xuân Quý cầm đầu đường dây mua bán ma túy trong Bệnh viện tâm thần Trung ương 1 chưa từng có tiền lệ. Nếu dành thời gian tìm hiểu chi tiết vụ án này thì không ai có thể tin được người này đang mắc bệnh tâm thần vì kế hoạch rất chuyên nghiệp, các tình tiết được thực hiện rất tinh vi mà không phải người bình thường nào cũng có thể nghĩ ra chứ chưa nói đến người tâm thần.

Nguyễn Xuân Quý không trực tiếp giao dịch với khách hàng mà sai đàn em giao hàng cho khách tại một địa điểm nào đó gần bệnh viện rồi ném hàng từ cửa sổ phòng hắn xuống, hai đàn em của Quý thường ngụy trang là tài xế taxi hoặc xe ôm để đi giao hàng cho khách có nhu cầu mua ma túy. Trường hợp khách muốn đến mua trực tiếp thì sẽ lấy danh nghĩa là người thân, bạn bè đến thăm bệnh nhân tâm thần.

Qua tìm hiểu sơ bộ, từ tháng 9/2019, Quý đã được chuyển sang khoa phục hồi chức năng và y học cổ truyền, theo quy định chuyên môn, chuyển sang khoa này là khi tình hình diễn biến bệnh đã ổn định và cải thiện. Như vậy, rất có khả năng đối tượng này đã tham gia điều hành đường dây buôn bán ma túy trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo và minh mẫn nhưng lại đội lốt bệnh nhân tâm thần để thực hiện tội phạm hòng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cũng giống như vụ án sát hại nữ lao công tại địa bàn quận Cầu Giấy kể trên, nếu có căn cứ xác định rằng Quý thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần ổn định thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, và để xác minh được điều này thì việc giám định pháp y tâm thần là một giai đoạn không thể bỏ qua.

Hiện nay, các đối tượng gây án đang ngày càng trẻ hóa, nhiều khi chỉ vì những lý do vớ vẩn cũng có thể dẫn đến chuyện gây gổ, đánh nhau. Nguyên nhân có thể đến từ nhiều phía, có thể do tiếp xúc với những văn hóa phẩm không lành mạnh, các trò chơi điện tử mang tính bạo lực, không làm chủ được cái tôi của bản thân, tuổi thơ khó khăn thiếu thốn, thiếu sự giáo dục từ người lớn, gia đình không hạnh phúc, hay là được nuông chiều từ nhỏ, …

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trong giới trẻ hiện nay và giải pháp căn bản nhất để hạn chế tình trạng này xảy ra trước mắt vẫn bắt nguồn từ phía gia đình, nhà trường và pháp luật.

Về phía gia đình, phụ huynh cần dành thời gian quan tâm, lắng nghe và tâm sự cùng con trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi mới lớn đang hình thành nhân cách, tâm sinh lý bất ổn, người ta hay nói giai đoạn này là giai đoạn nổi loạn, các em rất hiếu động và luôn muốn khẳng định bản thân mình nên thường hay có những lời nói và hành vi bộc phát, thiếu kiểm soát, thiếu kiềm chế và thiếu chuẩn mực, các em không thể lường trước được những hành vi nhất thời mà mình thực hiện sẽ gây ra những hậu quả gì.

Đi cùng với sự dạy dỗ từ gia đình thì việc giáo dục tại trường học là điều vô cùng cần thiết vì hầu hết thời gian sinh hoạt đều được các em thực hiện ở trường nhiều hơn ở nhà. Bệnh thành tích đang len lỏi ở hầu hết các cơ sở giáo dục, tất nhiên các em có thành tích học tập tốt là một điều rất đáng tuyên dương, thế nhưng đạo đức mới là cái làm nên nhân cách con người. Nhiều trường học chưa chú trọng đến giáo dục đạo đức, kỹ năng, lối sống cho học sinh mà chỉ chú trọng đến dạy văn hóa đã vô tình làm cho tệ nạn bạo lực học đường hoành hành. Người ta thường hay ví trường học là ngôi nhà thứ hai, đối với những em không may có một gia đình không trọn vẹn thì có lẽ trường học lại chính là ngôi nhà duy nhất. Chính vì vậy, nhà trường cần phải đẩy mạnh các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa và giảm thiểu đến mức thấp nhất tình trạng bạo lực diễn ra, tích cực tuyên truyền và phổ biến pháp luật để các em có thể phần nào hình dung được hậu quả pháp lý xảy ra khi bản thân có hành vi bạo lực, và quan trọng nhất là phải có những phương pháp vừa mang tính giáo dục vừa mang tính răn đe thật nghiêm khắc trước khi các em bước ra ngoài xã hội.

Bên cạnh đó, hiện nay với sự bùng nổ của thời đại công nghệ số, các em được tiếp xúc với Internet, thiết bị công nghệ, các trang mạng xã hội và các chương trình truyền hình từ khi còn rất nhỏ, đây là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phát triển sớm và điều này có thể làm cho các em phát triển sớm hơn về mặt tâm lý, sinh lý và cả về nhận thức. Vậy nên việc giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa bao giờ là phù hợp hơn thời điểm này. Bộ luật Hình sự hiện đang quy định người chưa đủ 18 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm, quy định này cũng bắt nguồn từ nguyên tắc nhân đạo của Bộ luật Hình sự, tuy nhiên đã có không ít trường hợp trẻ vị thành niên phạm tội nhận thức được độ tuổi của mình là chưa đủ để chịu trách nhiệm hình sự nên đã thực hiện hành vi phạm tội đến cùng một cách man rợ, đơn cử như sát thủ Lê Ngọc Chung đã ra tay sát hại 03 người khi mới 15 tuổi nên chỉ bị lĩnh án 12 năm tù, hay Lê Văn Luyện sát hại 03 người nhưng chưa đủ 18 tuổi nên chi bị tuyên kịch khung là 18 năm tù. Đây là vấn đề gây tranh cãi muôn thuở vì dư luận cho rằng hình phạt dành cho các đối tượng giết người tàn ác, máu lạnh này chưa tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội, chưa đủ sức để răn đe, phòng ngừa các thế hệ sau. Và đây cũng chính là một trong số nhiều nguyên nhân khiến cho tình trạng tội phạm đang ngày càng trẻ hóa và mức độ nghiêm trọng trong từng hành vi phạm tội đang ngày càng tăng lên. Vậy nên tôi cho rằng giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở thời điểm này là hoàn toàn phù hợp để có thể giáo dục, ngăn chặn và phòng ngừa những trường hợp đáng tiếc xảy ra sau này.

LINH CHI

Điều kiện để sinh viên được xét và công nhận tốt nghiệp

Admin