/ Hồ sơ - Tư liệu
/ Những vụ án trong Truyện Kiều: Nhiều bài học bổ ích vẫn còn áp dụng đến ngày nay

Những vụ án trong Truyện Kiều: Nhiều bài học bổ ích vẫn còn áp dụng đến ngày nay

13/11/2025 09:42 |

(LSVN) - Theo các nhà nghiên cứu, Nguyễn Du viết Truyện Kiều cách đây hơn 200 năm, trong đó có nhiều vụ án. Mỗi vụ án diễn ra trong bối cảnh, hoàn cảnh, thời gian, nội dung khác nhau nhưng đều chứa đựng nhiều bài học bổ ích.

Vương Ông là một vị quan trong triều nhà Minh, mặc dù ông có chức vụ quan trọng nhưng vì ngay thẳng, thật thà nên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, bị giáng xuống chức quan nhỏ. Ông có hai người con gái đẹp người, đẹp nết là Thúy Kiều và Thúy Vân, con trai là Vương Quan. Gia đình đang êm ấm bỗng tai họa ập đến. Sai nha, nách thước, tay đao ầm ầm kéo đến nhà, không một lời tuyên bố liền bắt Vương Ông, Vương Quan đánh đập, tra tấn “già giang một lão, một trai / Một dây vô lại buộc hai thâm tình”.

Chúng treo lên xà nhà tiếp tục hành hạ “rường cao rút ngước dây oan”, chúng vét hết của cải trong gia đình “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Một vụ án oan sai tột cùng “Ttếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây” nhưng chỉ do thằng bán tơ vu khống. Đây là một vụ án vô cùng bất công người lương thiện không được bảo vệ. Một xã hội quan lại coi thường luật lệ, kỷ cương phép nước. Sai nha lộng hành muốn bắt ai là bắt, muốn cướp của ai là cướp, chà đạp lên đạo lý, lẽ sống con người.

Với ngọn bút tài hoa của Nguyễn Du đã phác họa một xã hội chân lý không được bảo vệ, quan lại tham lam vô độ, nỗi oan của dân không ai quan tâm. Quan ăn trên nỗi đau của dân.

Nhưng điều đáng trách là gia đình Vương Ông thuộc dòng Nho gia thông minh vốn sẵn tính trời mà không thấy được đây là một vụ án bất thường, tại sao không nhận ra những điểm nghi vấn của vụ án mà tìm cách xử lý theo pháp luật. Đành cam chịu một thằng bán tơ vu khống với bằng chức ngoại phạm gây tan nát một gia đình. Vương Ông bỏ mất cái quyền cơ bản của mình được pháp luật bảo vệ. Tại sao không viết đơn thư kêu lên các cấp của triều đình. Để triều đình thấy được sự thối nát, tham nhũng của quan lại, sai nhà ở địa phương. Như vậy gia đình Vương Ông đã bỏ mất cái quyền cơ bản của mình, là dựa vào pháp luật để làm sáng tổ vấn đề, mà giải quyết vấn đề một cách cảm tính, theo bản năng tự nhiên.

Bộ tranh sơn mài vô cùng quý hiếm mô tả tài năng Thúy Kiều cầm, kỳ, thi, họa do Bản quản lý Khu di tích mới sưu tầm được trong dân gian.

Bộ tranh sơn mài vô cùng quý hiếm mô tả tài năng Thúy Kiều cầm, kỳ, thi, họa do Bản quản lý Khu di tích mới sưu tầm được trong dân gian.

Thúy Kiều một cô gái hiểu biết pháp luật là chị cả trong gia đình đi đến các cửa quan mà kêu oan. Nhưng Thúy Kiều chỉ nghĩ tiêu cực “hạt mưa sá nghĩ phận hèn” và bi quan hơn “oan này chỉ một kêu trời nhưng xa”. Suy nghĩ tiêu cực, dẫn đến hành động tiêu cực “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”. Việc Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc cha chưa phải là một giải pháp hay. Nếu Thúy Kiều một cô gái cương nghị, dựa vào pháp luật, dấn thân vào đấu tranh tìm ra lẽ phải, nhất định bọn quan tham không thể nào thoát tội. Dù cho triều đình thối nát, cũng còn có người tốt, có người đứng về lẽ phải, có người thương dân. Thúy Kiều đấu tranh kiên quyết nhất định thằng bán tơ, người vu oan cho gia đình, người làm cho gia đình tan nát phải được quan tòa đem ra xét xử, trị tội.

Thúy Kiều bán mình chuộc cha là việc làm tiêu cực, không phải giải pháp hay, nên dẫn đến bản thân chịu vô vàn tủi nhục, 15 năm lưu lạc nếm trải đủ mùi đắng cay, 2 lần vào lầu xanh, 6 lần lấy chồng.

Thúy Kiều cho rằng Chung Ông người “từ tâm”, có tuổi tác, làm trong nha dịch nhiều năm nên cô tin tưởng nhờ cậy chạy án cho gia đình. Chung Ông “tính bài lót đó luồn đây”, chạy vạy dàn xếp với giá “ba trăm lạng”. Khi dàn xếp “ba trăm lạng” xong, cha con Vương Ông “hãy về tạm phó giam ngoài” . Thúy Kiều cho rằng đó là ân huệ của Chung Ông. Khi mối lái bán Kiều xong họ Chung thấy chắc chắn về tiền bạc lúc đó mới ra sức giúp.

Thúy Kiều nhìn nhận sai lầm với Chung Ông. Chung Ông không phải một con người “từ tâm” như Kiều nghĩ. Chung Ông một vị quan đáng ra thấy chuyện bất bình, thấy gia đình Kiều oan ức hướng dẫn Thúy Kiều dựa vào pháp luật mà đòi công lý, đòi lẽ phải, đòi công bằng cho gia đình. Nhưng Chung Ông lại chạy vạy, đút lót, đồng lõa, thỏa hiệp với việc làm sai trái của sai nha. Chứng tỏ Chung Ông không phải con người tốt. Nguy hiểm hơn Chung Ông còn cho rằng việc làm của mình không phải dễ dàng, mình là người có công lao với gia đình Vương Ông.

Nguyễn Du cũng muốn nói với mọi người rằng khi một vụ việc xảy ra phải bình tĩnh, cân nhắc để xử lý cho đúng không phải hốt hoảng như gia đình Vương Ông “một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ”. Đã hoảng hốt thì xử lý dễ mắc sai lầm, gia đình Thúy Kiều là điển hình. Qua chuyện của gia đình Thúy Kiều cho chúng ta bài học: “Mỗi một người muốn đứng vững trong xã hội, muốn phát triển thì phải có khả năng ứng xứ linh hoạt trong mọi tình huống”.

Tượng Đại thi hào Nguyễn Du bằng đồng cao 1,5m.

Tượng Đại thi hào Nguyễn Du bằng đồng cao 1,5m.

Trong vụ án Thúc Ông kiện Thúy Kiều có đầy đủ thành phần tham gia tố tụng. Thúc Ông làm nghề buôn bán, lúc nào cũng xem đồng tiền là trên hết. Nhưng gặp phải cậu con trai Thúc Sinh có thói trăng hoa, chơi bời “Thúc Sinh quen thói bốc rời/ Trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Của cải ông làm ra dần dần khánh kiệt vì cậu con trai ăn chơi. Khi biết Thúc Sinh lấy Thúy Kiều một cô gái bán hoa làm vợ lẽ thì ông “phong lôi nổi trận bời bời”. Ông cho rằng Thúy Kiều làm ảnh hưởng đến uy tín gia đình công việc buôn bán của nhà ông. Nên Thúc Ông bằng cách chia rẽ cho được Thúy Kiều và Thúc Sinh. Nên Thúc Ông kiện Thúy Kiều ra tòa “sốt gan ông mới đơn quỳ cửa công”. Như vậy, Thúc Ông là nguyên đơn, Thúy Kiều người bị đơn. Nhận đơn, tòa có trát triệu tập nguyên đơn, bị đơn, người biện hộ như luật sư đều có mặt “Cùng nhau theo gót sai nha/Song song đến trước sân hoa lạy quỳ”. Quan Tòa một người trông uy nghi, đạo mạo “trông lên mặt sắt đen sì”. Ông ta tỏ ra ta là một người quyền lực quát tháo thể hiện là người uy nghiêm thực thi pháp luật, để cho mọi người thấy tôn nghiêm của phiên tòa “lập nghiêm trước hãy ra uy nặng lời”.

Vị quan tòa không cho nàng Kiều trình bày, ông cũng không thèm hỏi nàng Kiều mà buộc tội nàng “tội đong đưa”, “tội đánh lừa”, “tội hoa thải hương thừa”. Đặc biệt là tội lừa gạt, người bị lừa là Thúc Sinh. Đây là một phiên tòa kỳ quặc bị đơn không được xét hỏi, không được trình bày, không được tranh tụng, tòa tuyên án luôn. Nhưng rất lạ vị quan tòa tuyên án nước đôi “ một là cứ phép gia hình”. Nghĩa là đánh đòn cho thật đau để chừa. “Hai là cứ lầu xanh phó về” là lại trả về lầu xanh.  

Trong lúc Kiều đang bị đánh vô cùng đau đớn thì Thúc Sinh xuất hiện tại phiên tòa. Thúc Sinh xuất hiện như người biện hộ, cũng là vị luật sư. Trước tòa Thúc Sinh đã minh oan cho Thúy Kiều, chàng cho rằng mọi tội lỗi đó là do mình gây ra, nàng không có tội “Khóc rằng oan khốc vì ta / Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau / Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu / Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai”. Lúc này quan tòa mới vỡ ra là trước khi Thúc Sinh cưới Thúy Kiều đã từ chối. Nàng khuyên răn chàng nhiều lần, nói rõ cho chàng biết hết thân phận của mình “thiếp như hoa đã lìa cành”.

Chế độ phong kiến ở nước ta không cấm người con trai lấy nhiều vợ, nhưng có một điều đã thành luật chồng muốn lấy thêm vợ thì phải được sự đồng ý của vợ cả, vợ cả đích thân đi hỏi thêm vợ cho chồng. Thúy Kiều biết làm vợ lẽ Thúc Sinh là đi cướp chồng người khác, vi phạm luật phong kiến. Nàng còn nghĩ xa hơn bố có đồng ý không, nếu chuyện vỡ lỡ làm ảnh hưởng đến gia đình Thúc Sinh “đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng”.

Nhưng Thúc Sinh một mực không nghe lời khuyên bảo của Thúy Kiều, chàng yêu nàng từ trái tim mình, bị từ chối Thúc Sinh tuyên bố sẽ chịu mọi trách nhiệm về sau “Đường xa chẳng ngại Ngô Lào/ Trăm điều hãy cứ trông vào một ta”. Quyết liệt hơn chàng sẽ tự tử nếu bị nàng không đồng ý “Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều”. Nàng không đành từ chối một tình yêu chân thật, sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nàng trân trọng tình yêu của Thúc Sinh chấp nhận lấy chàng.

Khi Thúc Sinh trình bày trước quan tòa như một người biện hộ, cũng là vị luật sư khẳng định Thúy Kiều không có tội. Lúc này quan tòa biết mình đã xử sai, gây oan sai cho một cô gái. Nhưng quan tòa không chịu nhận sai, không thắn thắng nhận lỗi về mình. Chữa sai bằng cách “Dẹp uy mới liệu cho bài vân vi” . Quan tòa chỉ thừa nhận Thúy Kiều “Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều”. 

Thúy Kiều làm bài thơ vịnh cái gông đang đeo ở cổ nàng. Nghe xong vị quan tòa kinh ngạc và nể phục “Khen rằng đáng giá thịnh Đường/Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Nghe xong thơ vị quan tòa xóa án oan cho Thúy Kiều, quyết định tuyên án lại “Thực là tài tử giai nhân / Châu trần nào có Châu Trần nào hơn”.  Vị quan tòa nhận ra một điều con người Việt Nam đã từ xưa đã quen một trăm cái lý, không bằng một tí cái tình, ông nói thẳng giữa công đường “ Đã đưa nhau đến cửa công/ Bề ngoài là lý song trong là tình”. Nghe vị quạn tòa lý giải vậy Thúc Ông không có ý kiến gì. Điều ngạc nhiên là vị quan tòa lại đứng ra làm chủ hôn cho Thủy Kiều và Thúc Sinh “Kíp truyền sắm sửa lễ công/ Kiệu hoa cất giá đuốc hồng ruổi sao”. Phiên tòa này cho chúng ta thấy xét xử không dựa trên pháp lý, dựa trên cảm tính, nhưng lẽ phải cũng được công nhận, không thể chà đạp lên công lý.

Từ Hải - người “Đường đường một đứng anh hào/ Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải là một người anh hùng, có tài thao lược gặp Kiều khi đang ở lầu xanh họ Bạc. Nhưng khi mới gặp nhau hai người đã ưa nhau, quyến luyến nhau “Thiếp danh đưa đến lầu hồng/Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa”. Kiều gặp Từ Hải nàng thấy hạnh phúc, được tự do, thoát khỏi thân phận lầu xanh, trở thành một mệnh phu nhân có điều kiện báo ân, báo oán, có điều kiện về lại cố hương gặp lại gia đình. Còn Từ Hải chấp nhận Kiều là người tri kỷ không hề đắn đo trước đó nàng là người thế nào “Nghe lời vừa ý, gật đầu/Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người”. Sau khi lấy Từ Hải Thủy Kiều được tận hưởng hạnh phúc vợ chồng như bao người phụ nữ khác. Từ Hải trở thành một vị Đại Vương quyền lực vô song chàng căm hận những kẻ trước đây đã chà đạp hành hạ vợ mình nên đã phái quân “Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm tri” bắt hết từ Tú Bà, Hoạn Thư, Bạc Hạnh, Bạc Bà, Sở Khanh, Ưng Khuyến, Mã Giám Sinh về giao cho Kiều toàn quyền xét xử.

hững vụ án trước đây Kiều là người bị hại, người bị đơn, đến bây giờ thì Kiều hoàn toàn khác, nàng là vị quan tòa đầy quyền lực. Đây là một tòa án binh mở giữa quân doanh uy nghiêm khủng khiếp, khí thế ngút trời “Bác đồng chật đất tinh kỳ rợp sân”. Người mà Thúy Kiều đưa ra xét xử đầu tiên là Hoạn Thư. Khi Hoạn Thư bước vào nàng hạ lệnh cho quân lính tuốt gươm ra khỏi vỏ “Dưới cờ gươm tuốt nắp ra” chỉ chờ lệnh của Kiều phán xét là án thi hành ngay. Nhưng Kiều lúc này không còn non trẻ như xưa mà một con người từng trải, đủ bản lĩnh, nên đã ngọt lạt chào Hoạn Thư “Thoạt trông, nàng đã chào thưa/Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”. Lời chào thưa ngọt ngào của Thúy Kiều bên một rừng gươm làm cho Hoạn Thư hồn xiêu phách lạc. Nhưng Hoạn Thư không những một người đàn bà ghen tuông tột độ, mưu mô trong cuộc sống cũng không vừa, sau đó Hoạn Thư trấn tĩnh lại nhanh thể hiện rõ một người phụ nữ đầy bản lĩnh và “Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Chỉ khấu đầu chứ không quì lạy thưa như lễ nghi hồi đó bắt buộc, cho thấy Hoạn Thư một con người không phải đơn giản. Lúc này mọi người mới thấy con gái của vị quan “ tể tướng” gỡ tội cho mình giỏi thế nào “Rằng: Tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình/Nghĩ cho khi các viết kinh/Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo/Lòng riêng, riêng những kính yêu/Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai”. Lời kêu ca chính là “ gỡ tội” của Hoạn Thư trước tòa. Nó còn hơn những lời bào chữa của các vị luật sư.

Cái giỏi của Hoạn Thư những việc làm độc ác của mụ đối với Kiều trước đây mụ đành hạ xuống cho là chuyện “bình thường” của đàn bà. Thế rồi Hoạn Thư kể công khi nàng tu ở Quan Âm Các trong vườn nhà, Kiều bỏ trốn mang theo “Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân” để làm của hộ thân, nếu tôi cho người truy mã bà thì không khó khăn gì, nhưng tôi không muốn hại người. Lúc này Hoạn Thư đẩy chánh án Thúy Kiều vào một tình thế lúng túng, khó xử, nên dù căm giận Hoạn Thư nhưng Kiều phải cất lời khen “Không ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Không con đường nào khác nàng tuyên lệnh thả Hoạn Thư “ Truyền quân lệnh xuống trướng tiền thả ngay”. Thúy Kiều đã thua hoạn thư về lý.

Truyện Kiều không những hay về văn chương, chữ nghĩa mà con hay cả về luật lệ, pháp lý, đạo và đời. Càng đọc càng suy ngẫm càng thấy thấm thía, cho chúng ta nhiều bài học bổ ích. 

HẢI HƯNG