Giái đáp về vấn đề trên, Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Phó Giám đốc Công ty luật TNHH TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, tại khoản 1 Điều 5 Luật Lý lịch tư pháp 2009 quy định đối tượng quản lý lý lịch tư pháp là: “Công dân Việt Nam bị kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam, Toà án nước ngoài mà trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự hoặc theo nguyên tắc có đi có lại”.
Theo đó, pháp luật Việt Nam chỉ quản lý lý lịch tư pháp với công dân Việt Nam bị kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam, Toà án nước ngoài mà trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Như vậy, có nghĩa là người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài chỉ được coi là “có án tích” khi giữa Việt Nam và nước đó có tồn tại điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại thì mà trích lục bản án hoặc trích lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam.
Nếu giữa hai nước không có điều ước quốc tế hoặc không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong lĩnh vực này thì trong lý lịch tư pháp của người đó tại Việt Nam vẫn được coi là “không có án tích”.
MINH QUÝ