/ Pháp luật bốn phương
/ Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam

23/04/2021 09:04 |

(LSVN) - Bài viết so sánh một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp tạm giam được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

 Ảnh minh họa.

1. Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện pháp tạm giam

Ở Đức, biện pháp tạm giam là một trong những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự (TTHS) và được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Đức (Bộ luật TTHS) năm 1987 (sửa đổi năm 2019). Đây cũng là biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế, được áp dụng bởi tòa án có thẩm quyền từ những giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án, từ khi người bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách là người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Là một quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng, Cộng hòa Liên bang Đức hướng đến việc đảm bảo tối đa quyền của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án.

1.1. Đối tượng áp dụng và hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam

Đối tượng thứ nhất có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam (Remand detention) là người bị nghi ngờ xác đáng về việc thực hiện tội phạm (strongly suspected of the offence) và phải có căn cứ để bắt giữ. Tuy nhiên, lệnh tạm giam sẽ không được đặt ra nếu không tương xứng với tính chất của vụ án hoặc hình phạt hoặc các biện pháp cải tạo và phòng ngừa (quyết định về án treo và cảnh cáo, hoãn thi hành phần còn lại của bản án phạt tù, hoãn thi hành án phạt tù)[1] dự kiến được áp dụng[2]. Hai đối tượng kế tiếp có thể áp dụng biện pháp này là bị can – người đã có quyết định truy tố (indicted accused) và bị cáo – người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử (defendant)[3].

Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS Đức cũng quy định các trường hợp hạn chế tạm giam, theo đó, những người không thỏa mãn các điều kiện hạn chế tạm giam sẽ không bị áp dụng biện pháp này trừ một số trường hợp luật định. Cụ thể, những đối tượng bị nghi ngờ xác đáng về việc thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo không bị áp dụng biện pháp tạm giam là những người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng (các hành vi trái pháp luật với mức hình phạt thấp hơn một năm tù hoặc hình phạt tiền)[4] đến 6 tháng tù hoặc phạt tiền đến 180 đơn vị tính theo ngày (daily units). Tuy nhiên, hạn chế này không áp dụng đối với trường hợp khi bị can trước đó đã trốn tránh pháp luật hoặc đã chuẩn bị cho việc bỏ trốn; hoặc bị can không có nơi ở cố định hoặc nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ theo quy định của Luật này, hoặc bị can không thể khai báo danh tính của mình[5].

1.2. Căn cứ tạm giam

Theo quy định của Điều 112 Bộ luật TTHS Đức, lệnh tạm giam có thể được áp dụng đối với người bị buộc tội nếu có đủ 2 điều kiện, một là có chứng cứ để nghi ngờ người đó phạm tội, và hai là có căn cứ để bắt giữ (ground for arrest). Theo đó, dựa vào những tình tiết cụ thể của vụ án và hành vi của người bị buộc tội, những căn cứ để bắt giữ theo quy định của luật có thể bao gồm một số căn cứ sau đây, có khả năng gây khó khăn cho việc xác định sự thật vụ án, đặc biệt là vấn đề thu thập chứng cứ:

- Có căn cứ xác định người bị buộc tội đã bỏ trốn hoặc có nguy cơ bỏ trốn (risk of flight);

- Có căn cứ xác định người này sẽ phá huỷ, thay đổi, di chuyển, giấu, hoặc làm giả chứng cứ; tác động không đúng đắn tới đồng phạm, nhân chứng, chuyên gia, hoặc khiến người khác thực hiện những hành vi này.

Tuy nhiên, dù không có căn cứ bắt giữ nhưng người bị buộc tội vẫn có thể bị tạm giam khi rơi vào các trường hợp: (1) Có căn cứ rõ ràng để nghi ngờ người đó phạm tội tại Điều 308 Bộ luật Hình sự (BLHS) Đức (khoản 1, 2, 3 – Tội phạm về cháy nổ) nhằm thực hiện các hành vi diệt chủng tại điểm 1 khoản 1 Điều 6 Bộ luật những tội phạm chống lại Luật quốc tế (Code of Crimes against International Law – CCAIL); hoặc (2) Phạm tội tại khoản 1, 2 Điều 129a, khoản 1 Điều 129b (liên quan đến việc thành lập các tổ chức khủng bố), Điều 211 (Tội giết người trong những trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự), Điều 212 (Tội giết người không thuộc các trường hợp tại Điều 211), Điều 226 (Tội gây ra những tổn thương trên cơ thể), Điều 306b, 306c BLHS Đức (liên quan đến tội làm hỏa hoạn). Theo đó, trong lệnh bắt cũng phải ghi rõ các tình tiết dẫn tới sự nghi ngờ về tội phạm và căn cứ cho việc bắt, trừ khi việc đó ảnh hưởng tới an ninh quốc gia[6].

Một số căn cứ khác cho việc bắt giữ cũng được quy định tại Điều 112a Bộ luật TTHS Đức khi có căn cứ xác đáng để nghi ngờ rằng bị can sẽ thực hiện một số tội phạm được liệt kê tại điều luật này và nếu có căn cứ cho thấy khả năng trước khi có bản án kết tội, người đó sẽ thực hiện tiếp những tội phạm nghiêm trọng tương tự hoặc sẽ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, và việc tạm giam là cần thiết để ngăn ngừa sự nguy hiểm sắp xảy ra. Tuy nhiên, những căn cứ bắt giữ tại Điều 112 sẽ được ưu tiên áp dụng trước. Như đã đề cập, một số căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật TTHS Đức cũng có thể được áp dụng đối với những đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng đến 6 tháng tù hay phạt tiền đến 180 đơn vị tính theo ngày.

Ngoài ra, theo quy định của khoản 4 Điều 116 Bộ luật TTHS Đức, sau khi có quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt nhưng người bị buộc tội vi phạm một số căn cứ thì lệnh bắt sẽ được áp dụng lại kèm theo việc tạm giam. Những vi phạm đó có thể xuất phát từ việc bị can vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ và các hạn chế được áp dụng đối với họ; bị can chuẩn bị bỏ trốn, vắng mặt không có lý do chính đáng khi được triệu tập, hoặc có biểu hiện khác khiến cơ quan có thẩm quyền mất niềm tin vào họ; hoặc có những tình tiết mới khiến cho việc bắt là cần thiết.

1.3. Thời hạn tạm giam

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, như đã đề cập, tạm giam có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo và luôn gắn liền với các căn cứ bắt giữ. Như vậy, có thể thấy tạm giam được áp dụng ngay từ những giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, từ khi xuất hiện tư cách người bị tình nghi thực hiện tội phạm và kéo dài suốt quá trình này. Điều 121 Bộ luật TTHS Đức quy định, trong trường hợp bản án chưa được tuyên về việc quyết định hình phạt tù hoặc cải tạo giam giữ thì thời hạn tạm giam nhiều hơn 06 tháng đối với một hành vi phạm tội sẽ chỉ được áp dụng trong trường hợp việc điều tra có khó khăn đặc biệt hoặc kéo dài bất thường hoặc vì một số lý do quan trọng khác mà việc tuyên án bị cản trở và có cơ sở cho việc tiếp tục tạm giam. Tuy nhiên, trong trường hợp này, thời hạn tạm giam sẽ không kéo dài hơn 01 năm nếu thuộc những căn cứ khác cho việc bắt giữ tại Điều 112a Bộ luật TTHS Đức[7]. Trong trường hợp Tòa án Khu vực cấp trên (Higher Regional Court) ra lệnh tiếp tục tạm giam thì biện pháp tạm giam vẫn tiếp tục được áp dụng và Tòa án Khu vực cấp trên sẽ có thẩm quyền cho tới khi bản án được tuyên[8]. Tóm lại, ở Cộng hòa Liên Bang Đức, biện pháp tạm giam được áp dụng thông thường dưới 06 tháng, nhưng trong một số trường hợp ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì biện pháp này có thể được kéo dài đến 01 năm, đặc biệt Toà án Khu vực cấp trên có quyền kéo dài thời hạn tạm giam cho đến khi bản án được tuyên, tức là trên 01 năm.

1.4. Hủy bỏ biện pháp tạm giam

Theo quy định cùa Bộ luật TTHS Đức, việc hủy bỏ biện pháp tạm giam được thực hiện thông qua quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt nếu có sự đồng ý của cơ quan công tố hoặc quyết định hủy bỏ lệnh bắt của Tòa án. Quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt sẽ được Thẩm phán áp dụng nếu có các biện pháp ít nghiêm khắc hơn đủ để đảm bảo cho mục đích của việc tạm giam và có căn cứ cho rằng, bị can sẽ tuân thủ các yêu cầu nhất định; hoặc các biện pháp này có khả năng làm giảm đáng kể những khó khăn của việc thu thập chứng cứ; hoặc bị can có đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo[9]. Quyết định hủy bỏ lệnh bắt của Tòa án được ban hành khi không còn các căn cứ cho việc tạm giam, hoặc nếu việc tiếp tục tạm giam không còn phù hợp với tính chất của vụ án, không còn tương xứng với những hình phạt dự kiến và với các biện pháp cải tạo, phòng ngừa. Lệnh bắt cũng sẽ được huỷ bỏ nếu cơ quan công tố có đề nghị trước khi có quyết định khởi tố vụ án. Đặc biệt, lệnh bắt sẽ bị huỷ bỏ nếu bị cáo được tuyên vô tội; không thể mở phiên tòa hoặc nếu thủ tục tố tụng bị đình chỉ[10]. Một điểm đáng lưu ý là việc hủy bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ thi hành lệnh bắt còn được xem xét dựa trên yêu cầu của người bị buộc tội ở bất cứ thời điểm nào trong quá trình bị tạm giam[11].

2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giam

Tương tự như pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được quy định tại Chương VII của Bộ luật TTHS năm 2015, có khả năng hạn chế một số quyền tự do của người bị buộc tội từ thời điểm một người được xác định với tư cách là bị can. Vì vậy, trường hợp người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì đó là một trong những căn cứ để xem xét bồi thường oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017[12]. So với Bộ luật TTHS năm 2003, biện pháp tạm giam được quy định trong Bộ luật TTHS  năm 2015 đã có những điểm tiến bộ nhất định như có sự chặt chẽ hơn về căn cứ tạm giam, từ đó đảm bảo tốt hơn quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng.

2.1. Đối tượng áp dụng và hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam

Đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015[13] bao gồm bị can và bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Theo đó, có thể hiểu bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng đều có thể là đối tượng bị tạm giam. Nói cách khác, biện pháp này có thể được áp dụng từ khi có quyết định khởi tố bị can cho đến khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi bị can, bị cáo thì đều sẽ bị tạm giam. Việc quyết định có áp dụng hay không áp dụng biện pháp này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như loại tội phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng.

Với mục đích nhân đạo, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định hạn chế tạm giam đối với một số chủ thể bao gồm: phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Theo đó, những đối tượng này khi thuộc các trường hợp có thể tạm giam thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam mà bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít bị hạn chế quyền tự do hơn như biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú,… trừ một số trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 có khả năng gây cản trở quá trình giải quyết vụ án.

2.2. Căn cứ tạm giam

Điều 119, Điều 278 và Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định khá cụ thể các căn cứ tạm giam. Theo đó, biện pháp tạm giam được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm, từ tội ít nghiêm trọng cho đến tội đặc biệt nghiêm trọng. Hơn nữa, biện pháp tạm giam không chỉ được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố mà còn được áp dụng ngay cả trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Cụ thể, khi đến ngày mở phiên tòa mà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa[14]. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với mỗi loại tội phạm có những giới hạn riêng:

- Đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng: Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng, tuy nhiên lại hạn chế áp dụng đối với đối tượng là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Việc xác định tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng để quyết định có hay không việc áp dụng biện pháp tạm giam được cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản, điều được quy định trong BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 (BLHS năm 2015), được thể hiện cụ thể trong quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử.

- Đối với hai loại tội phạm là nghiêm trọng và ít nghiêm trọng: Bộ luật TTHS năm 2015 giới hạn biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng khi có đủ hai điều kiện: (i) BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm, và (ii) Rơi vào một trong các trường hợp luật định được quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015. Riêng đối với tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì tạm giam vẫn có thể bị áp dụng nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã[15]. Trường hợp phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng về tội nghiêm trọng và ít nghiêm trọng thì việc tạm giam cũng được xem xét áp dụng tương tự như đối với loại tội đặc biệt nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng.

Như vậy, để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức phạt tù đến 02 năm, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định chỉ có thể tạm giam đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã. Tuy nhiên, nếu bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định từ 2 năm tù trở xuống nhưng rơi vào căn cứ tại điểm a khoản 2 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 thì sẽ không bị tạm giam.

2.3. Thời hạn tạm giam

Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, thời hạn TTHS bao gồm: Thời hạn của thủ tục tố tụng và thời hạn của biện pháp ngăn chặn[16], trong đó có thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam. Do đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nên thời hạn áp dụng cũng được quy định chặt chẽ và tương ứng trong từng giai đoạn tố tụng chứ không tập trung trong cùng một điều luật. Dựa vào đó, có thể đưa ra một số nhận xét về thời hạn tạm giam được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:

Một là, cơ sở để phân định thời hạn tạm giam ở các giai đoạn tố tụng có sự khác nhau. Nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng loại tội phạm thì ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam trong khâu chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án lại căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Theo đó, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tức là không quá 60 ngày trong trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu mở phiên tòa phúc thẩm và không quá 90 ngày trong trường hợp Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương mở phiên tòa phúc thẩm[17]. Đối với thời hạn tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án sau khi tòa sơ thẩm tuyên án, Bộ luật TTHS năm 2015 ấn định là 45 ngày[18], bất kể thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại (sau khi đã trừ thời hạn tạm giam) do tòa tuyên nhiều hơn hay ít hơn 45 ngày. Ví dụ, bị cáo đã bị tạm giam 4 tháng trước khi xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo nhận mức án phạt tù với thời hạn 5 tháng. Như vậy, thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại của bị cáo chỉ còn 30 ngày trong khi Hội đồng xét xử (HĐXX) phải ra quyết định tạm giam bị cáo nhằm đảm bảo thi hành án với thời hạn 45 ngày theo quy định của luật. Vướng mắc này gây nhiều khó khăn cho Tòa án trong thực tiễn xét xử. Do đó trên thực tiễn, nếu thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại dưới 45 ngày thì HĐXX ghi thời hạn tạm giam bằng thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại và trong trường hợp này sẽ ghi thêm câu: “Hết thời hạn tạm giam này, Cơ sở giam giữ có trách nhiệm trả tự do ngay cho bị cáo nếu họ không bị giam, giữ về hành vi vi phạm pháp luật khác”[19].

Hai là, ở các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, dù căn cứ vào từng loại tội phạm để phân định thời hạn tạm giam, nhưng thời hạn tạm giam cũng có sự khác biệt giữa các loại tội phạm giống nhau ở các giai đoạn tố tụng khác nhau[20]. Lý giải sự khác biệt này là do giai đoạn điều tra và xét xử được xem là hai giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành nhiều hoạt động điều tra để xác định sự thật vụ án, từ đó có căn cứ định tội danh và quyết định hình phạt. Vì thế, thời hạn điều tra đối với cùng loại tội phạm nhưng ở hai giai đoạn này sẽ dài hơn cũng là loại tội phạm đó nhưng trong giai đoạn truy tố. Hơn nữa, xuất phát từ vai trò của Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng hiện diện ngay từ những khâu đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án nên việc quy định thời hạn tạm giam để truy tố ngắn hơn thời hạn tạm giam trong hai giai đoạn còn lại là hợp lý.

Theo quy định của Điều 278 Bộ luật TTHS năm 2015, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này. Đối chiếu với khoản 1 Điều 277 Bộ luật TTHS năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án ra một trong các quyết định, trong đó có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, từ lúc có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi mở phiên tòa sẽ có thêm một khoảng thời gian tố tụng nữa. Theo đó, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày[21]. Như vậy, nếu căn cứ theo quy định của Điều 278, trong khoảng thời gian này, bị cáo sẽ không bị tạm giam do thời hạn tạm giam đã chấm dứt tại thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây chính là điểm không rõ ràng trong luật, gây ra nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng của Tòa án trên thực tiễn. Trong khi thời hạn tạm giam ở khâu chuẩn bị xét xử phúc thẩm lại được quy định rõ ràng, cụ thể: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 346 của Bộ luật này”[22], tức là bao hàm cả khoảng thời gian từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến ngày mở phiên tòa xét xử phúc thẩm.

Ba là, việc kéo dài thời hạn tạm giam cho ngang bằng với thời hạn của thủ tục tố tụng ở từng giai đoạn cũng có sự khác biệt. Ở giai đoạn truy tố và xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để truy tố và xét xử sơ thẩm đối với tất cả các loại tội phạm đều có thể được kéo dài ngang bằng với thời hạn truy tố và xét xử loại tội phạm đó. Trong khi ở giai đoạn điều tra, chỉ duy nhất thời hạn tạm giam đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới có thể được kéo dài cho đến khi kết thúc việc điều tra, khi không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam. Chúng tôi cho rằng, thời hạn tạm giam để điều tra đối với tất cả các loại tội phạm nên được kéo dài bằng với thời hạn điều tra tương ứng với loại tội phạm đó. Điều này sẽ khắc phục được tình trạng hết thời hạn tạm giam nhưng thời hạn điều tra chưa kết thúc và không có căn cứ để áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam, đồng thời cũng hạn chế được tình trạng cơ quan điều tra khi hết thời hạn tạm giam thì nhanh chóng ra bản kết luận điều tra, kết thúc giai đoạn điều tra và chuyển sang giai đoạn mới để tiếp tục tạm giam bị can, trong khi vụ án vẫn chưa được điều tra toàn diện nên sẽ dễ gây ra oan sai.

2.4. Hủy bỏ biện pháp tạm giam

Điều 125 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định những trường hợp bắt buộc (đương nhiên) và tùy nghi (xét thấy cần thiết) trong việc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Theo đó, những trường hợp bắt buộc mà cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam là khi có: Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can; trường hợp bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, như thế nào được xem là những trường hợp “xét thấy cần thiết” để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì pháp luật TTHS không quy định cụ thể mà tùy thuộc nhận định của cơ quan có thẩm quyền.

3. So sánh quy định của pháp luật tố tụng hình sự Đức và Việt Nam về biện pháp tạm giam

3.1. Về đối tượng áp dụng và hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam

Nếu như ở Việt Nam, biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can (khi có quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền) và bị cáo (khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án) thì ở Đức, biện pháp ngăn chặn này cũng có thể được áp dụng trước khi xét xử (pre-trial detention)[23] và áp dụng đối với các đối tượng bao gồm người bị tình nghi thực hiện tội phạm (khi có quyết định bắt), bị can (khi có quyết định truy tố của Viện công tố) và bị cáo (khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án). Nhìn ở góc độ thời điểm áp dụng, biện pháp này được áp dụng ở Đức (thời điểm người bị tình nghi bị bắt) sớm hơn so với Việt Nam (thời điểm người bị buộc tội đã là bị can). Do biện pháp bắt quả tang và tạm giữ người bị tình nghi ở Đức cần được xem xét ngay bởi thẩm phán có thẩm quyền để quyết định có hủy bỏ biện pháp tạm giữ hay không. Theo đó, ngay sau khi bắt, người bị buộc tội được đưa đến trước Tòa án có thẩm quyền hoặc Tòa án địa phương nơi gần nhất, không muộn hơn ngày tiếp theo sau khi bị bắt và nếu có căn cứ thì thẩm phán phải ra lệnh bắt để tạm giam đối tượng này[24]. Do đó, thời hạn tạm giữ theo quy định của pháp luật TTHS Đức trước khi chuyển sang tạm giam ngắn hơn thời hạn tạm giữ theo pháp luật Việt Nam. Từ đó kéo theo biện pháp tạm giam ở Đức sẽ được áp dụng sớm hơn ở Việt Nam.

Với những trường hợp hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam, có thể thấy pháp luật TTHS Việt Nam có điểm ưu việt hơn pháp luật TTHS của Đức khi khoanh vùng một số đối tượng đặc biệt không bị áp dụng (bao gồm phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng) và những trường hợp loại trừ này chỉ mất hiệu lực khi các đối tượng này thực hiện hành vi gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định sự thật vụ án.

3.2. Về căn cứ tạm giam

Theo pháp luật TTHS Việt Nam, căn cứ tạm giam dựa vào loại tội phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng. Trong khi theo pháp luật TTHS Đức, căn cứ tạm giam lại gắn liền với căn cứ bắt giữ. Có thể thấy, dựa vào việc phân loại tội phạm để xác định căn cứ tạm giam ở Việt Nam dễ dẫn đến sự thiếu đồng bộ và nhiều lỗ hổng. Vì vậy, Việt Nam có thể tham khảo những ưu điểm của pháp luật TTHS Đức về cách thiết kế những căn cứ tạm giam theo hướng không dựa vào loại tội phạm mà xây dựng những căn cứ chung cho việc tạm giam.

3.3. Về thời hạn tạm giam

Nếu trong pháp luật TTHS Việt Nam, thời hạn tạm giam được căn cứ vào loại tội phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng (trừ thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử phúc thẩm căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm) thì trong pháp luật TTHS Đức, thời hạn tạm giam được căn cứ chủ yếu vào căn cứ bắt giữ và tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án. Điểm khá tương đồng trong thời hạn tạm giam của cả hai quốc gia này là thời hạn tạm giam có thể được kéo dài đến khi Tòa án tuyên án. Tuy nhiên, có hai sự khác biệt mà Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Đức: Thứ nhất, ở Việt Nam, trong giai đoạn điều tra, chỉ thời hạn tạm giam để điều tra đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được kéo dài đến hết thời hạn điều tra, trong khi ở Đức thì không có sự phân biệt này; Thứ hai, quy định về thời hạn tạm giam trong khâu chuẩn bị xét xử tại Điều 278 Bộ luật TTHS năm 2015 là không xuyên suốt và có sự ngắt quãng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng; trong khi ở Đức, thời hạn tạm giam là xuyên suốt trong cả quá trình tố tụng. Do đó, chúng tôi cho rằng, để bảo bảo quá trình TTHS diễn ra thuận lợi, cần sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2015 theo hướng cho phép kéo dài thời hạn tạm giam đối với tất cả các loại tội phạm cho ngang bằng với thời hạn điều tra tương ứng với loại tội phạm đó.

3.4. Về hủy bỏ biện pháp tạm giam

Theo pháp luật TTHS Đức, căn cứ để ra quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt khá tương đồng với những căn cứ của quyết định thay thế biện pháp tạm giam theo pháp luật TTHS Việt Nam; những căn cứ hủy bỏ lệnh bắt ở Đức cũng khá giống với căn cứ hủy bỏ biện pháp tạm giam ở Việt Nam. Tuy nhiên,pháp luật TTHS Đức có một sự logic nhất định trong mối quan hệ nhân quả giữa căn cứ tạm giam và việc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Vì căn cứ để tạm giam gắn liền với căn cứ bắt giữ nên khi không còn căn cứ bắt nữa thì việc tạm giam phải được hủy bỏ. Ở Việt Nam, căn cứ bắt buộc để hủy bỏ biện pháp tạm giam là những căn cứ đương nhiên mà nếu không quy định thì cơ quan có thẩm quyền cũng có thể hiểu rằng phải áp dụng như thế, việc quy định chỉ là hình thức để thống nhất việc áp dụng trên thực tế. Ngoài ra, pháp luật TTHS Đức còn cho phép người bị buộc tội có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ thi hành lệnh bắt bất cứ lúc nào trong quá trình tạm giam. Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam cũng có quy định tương tự, nhưng được thể hiện dưới dạng “quyền yêu cầu” chung những vấn đề liên quan đến vụ án của người bị buộc tội[25] chứ không rõ ràng, cụ thể như pháp luật của Đức./.

[1] Điều 453 - 455 và Điều 463 Bộ luật TTHS Đức năm 1987 (sửa đổi năm 2019).
[2] Khoản 1 Điều 112 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[3] Điều 157 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[4] Điều 12 Bộ luật TTHS Đức năm 1998 (sửa đổi năm 2013).
[5] Khoản 2 Điều 113 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[6] Điều 114 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[7] Điều 122a Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[8] Khoản 2 Điều 121 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[9] Điều 116, 116a Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[10] Điều 120 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[11] Điều 117 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[12] Điều 18 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
[13] Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015.
[14] Điều 278, Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015.
[15] Khoản 3 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015.
[16] Hoàng Tám Phi (2019), “Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về thời hạn tạm giam trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, tr. 33.
[17] Điều 346, 347 Bộ luật TTHS năm 2015.
[18] Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015.
[19] Biểu mẫu số 07, ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/09/2017 về ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật TTHS năm 2015.
[20] Điều 172, 240, 241, 277, 278 Bộ luật TTHS năm 2015.
[21] Khoản 3 Điều 277 Bộ luật TTHS năm 2015.
[22] Khoản 2 Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015.
[23] Liên minh châu Âu (2013), Những hướng dẫn pháp lý về thủ tục TTHS và quyền bào chữa ở Đức (Legal guidance notes about Criminal proceedings and defence rights in Germany).
[24] Điều 117 Bộ luật TTHS năm 2015.
    Điều 128 Bộ luật TTHS Đức năm 1987.
[25] Điều 58, 59, 60, 61 và Điều 175 Bộ luật TTHS năm 2015. 

THS. NGUYỄN PHƯƠNG THẢO - Trường Đại học Luật TP. HCM,

THS. TĂNG TRẦN QUỲNH PHƯƠNG - Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu

Theo Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 

Thế nào là các loại hợp đồng thông dụng?

Lê Minh Hoàng