Ảnh minh họa.
Quy định pháp luật điều chỉnh việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tại Việt Nam, quy định đầu tiên đề cập đến chế định bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là Nghị định số 30/HĐBT ngày 10/3/1988, tuy chỉ là những điều khoản sơ lược và đơn giản nhưng đó chính là nền tảng để xây dựng những quy định tiếp theo nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về vấn đề này. Mới đây nhất, Nghị định số 03/2021/NĐ-CP ngày 15/01/2021 thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20/12/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP đã quy định chi tiết và thống nhất về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, góp phần khắc phục những bất cập của quy định trước đó. Theo Nghị định mới, Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm.
Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tương tự các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác, chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới sẽ bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm là chủ sở hữu xe cơ giới hoặc được chủ sở hữu xe cơ giới giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe cơ giới. Để giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, các bên phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp bảo hiểm cần đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể bao gồm: là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; có giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo hiểm do Bộ Tài chính cấp trong đó có nội dung hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ; có người đại diện hợp pháp đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật để ký kết hợp đồng với bên mua bảo hiểm.
Đối với chủ xe cơ giới dù là tổ chức hay cá nhân thì đều cần đáp ứng các điều kiện chung theo quy định của pháp luật dân sự như có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Riêng với chủ xe cơ giới là tổ chức thì cần xét đến năng lực hành vi của người đại diện theo pháp luật hay đại diện ủy quyền của tổ chức đó trong việc xác lập hợp đồng.
Hình thức và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũng chịu sự điều chỉnh bởi quy định chung về hợp đồng bảo hiểm, theo đó, hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản(1).
Xuất phát từ quy định việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bắt buộc nên bên mua bảo hiểm luôn phải mang theo khi tham gia giao thông để chứng minh rằng họ đã tham gia bảo hiểm với một hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Để thuận tiện cho việc cung cấp bằng chứng chứng minh với bên thứ ba, Điều 6 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP đã quy định khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe cơ giới được doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe cơ giới khi chủ xe cơ giới đã đóng đủ phí bảo hiểm hoặc có thỏa thuận với chủ xe cơ giới về thời hạn thanh toán phí bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính.
Hiện nay, việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới rất thuận tiện và nhanh chóng khi mà các sản phẩm bảo hiểm được giới thiệu và có sẵn trên website trực tuyến của các doanh nghiệp bảo hiểm, các nền tảng ứng dụng thương mại điện tử hay các ví điện tử như Momo, Zalopay,…Vì thế, bên cạnh chứng nhận bảo hiểm giấy thì bên mua bảo hiểm còn có thể sử dụng chứng nhận bảo hiểm điện tử được doanh nghiệp bảo hiểm phát hành sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm điện tử. Trường hợp cấp giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử, doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành và phản ánh đầy đủ các nội dung quy định.
Thời điểm có hiệu lực và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Theo quy định tại Điều 401, Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm không quy định riêng về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi có một trong những trường hợp sau đây: (i) hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm; (ii) hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm; và (iii) có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.
Theo quy định mới, thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã được thay đổi theo hướng linh hoạt hơn. Nếu trước đây quy định thời hạn ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm là 01 năm hoặc dưới 01 năm thì hiện nay không còn quy định thời hạn cố định, ví dụ đối với xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự theo quy định của Luật Giao thông đường bộ, thời hạn bảo hiểm tối thiểu là 01 năm và tối đa là 03 năm… Điều này đã tạo sự chủ động cho bên mua bảo hiểm và cũng phù hợp chiến lược mục tiêu kinh doanh và năng lực quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm.
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Điều 10 và 11, Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định hợp đồng bảo hiểm chấm dứt (huỷ bỏ) trong các trường hợp giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe bị thu hồi; chủ xe cơ giới không thanh toán đủ phí bảo hiểm theo quy định; đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Tùy theo từng trường hợp chấm dứt, doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và không phải hoàn lại hoặc hoàn lại một phần phí bảo hiểm. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới gồm:
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe
Bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm kèm theo giấy chứng nhận bảo hiểm muốn chấm dứt và giấy chứng nhận thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe hoặc quyết định, thông báo của cơ quan có thẩm quyền về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe. Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm được xác định như sau:
(i) Trường hợp bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm gửi thông báo bằng hình thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính, thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tính từ thời điểm ghi vào sổ tiếp nhận của doanh nghiệp bảo hiểm.
(ii) Trường hợp bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm gửi thông báo bằng hình thức fax hoặc hệ thống thư điện tử, thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tính từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận fax, nhận thư điện tử.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm trước khi hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt.
Trường hợp bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm không thông báo về việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm có những bằng chứng cụ thể về việc xe cơ giới thuộc trường hợp được chấm dứt hợp đồng bảo hiểm do phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe, doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và các bằng chứng về việc xe cơ giới thuộc trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm không thực hiện các thủ tục chấm dứt hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên được chấm dứt. Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện hoàn phí bảo hiểm theo quy định. Trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm trong vòng 15 ngày kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm gửi thông báo cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm về việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm.
Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm do chủ xe cơ giới không thanh toán đủ phí bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt hiệu lực vào ngày kế tiếp ngày bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thanh toán phí bảo hiểm. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực, doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm về việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và hoàn lại cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm phần phí bảo hiểm đã thanh toán thừa (nếu có) hoặc yêu cầu bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm thanh toán đủ phí bảo hiểm đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm trước khi hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt. Doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm được xác định như sau:
(i) Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm gửi thông báo bằng hình thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính, thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tính từ thời điểm bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm ký nhận thông báo.
(ii) Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm gửi thông báo bằng hình thức fax hoặc hệ thống thư điện tử, thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tính từ thời điểm bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm nhận fax, nhận thư điện tử.
(iii) Hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực kể từ thời điểm chủ xe cơ giới thanh toán đủ phí bảo hiểm và được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản.
Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm do có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở tính phí bảo hiểm dẫn đến tăng, giảm các rủi ro được bảo hiểm
Trường hợp một: đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm thực hiện theo quy định sau: trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm trước khi hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt.
Trường hợp hai: đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, nhưng bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm bên mua bảo hiểm nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, hiện nay hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới về cơ bản đã được bảo đảm. Tuy nhiên, để việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đạt hiệu quả tối ưu trên thực tế, đòi hỏi cần phải xem xét thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cần có biện pháp quản lý hiệu quả về hoạt động phân phối bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Tại Thông tư số 04/2021/TT-BTC hướng dẫn chi tiết một số điều của Nghị định số 03/2021/NĐ-CP đã quy định rất rõ mức phí tham gia hợp đồng bảo hiểm với từng phương tiện xe cơ giới, ví dụ với xe mô tô hai bánh trên 50cc là 60.000 đồng, mô tô ba bánh là 290.000 đồng,… (các mức phí này chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Tuy nhiên, trên thị trường không khó để tìm mua những sản phẩm này với mức giá thấp hơn rất nhiều, chẳng hạn trên một tài khoản cá nhân, chủ đại lý chỉ thanh toán mức phí 45.000 đồng đối với xe gắn động cơ trên 50cc, thấp hơn 21.000 đồng so với quy định. Trên thực tế, vấn đề này đã được nhắc đến từ lâu, nhưng vì nhiều nguyên nhân, trong đó phổ biến là do áp lực doanh số bán hàng nên các phương thức cung ứng bảo hiểm xe máy ra thị trường quá đơn giản và bất cứ ai cũng có thể trở thành đại lý phân phối sản phẩm, từ người bán xăng dầu, tạp hóa,...(2). Tình trạng này có thể gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm khi mà các doanh nghiệp sẵn sàng chiết khấu hoa hồng cao cho đại lý và đại lý sẵn sàng giảm phí thấp để có được doanh số. Bên cạnh đó, một số đại lý đã có hành vi chiếm đoạt phí bảo hiểm của khách hàng như trường hợp một khách hàng khi giao dịch qua mạng đã được đại lý hướng dẫn mua bảo hiểm và ghi sẵn thời hạn bảo hiểm 02 năm với giá ưu đãi giảm 10.000 đồng nhưng sau khi đóng phí và nhận giấy chứng nhận, qua đường dây nóng của doanh nghiệp bảo hiểm, khách hàng nhận được thông tin họ không thực hiện bảo hiểm 02 năm trên 01 giấy chứng nhận. Theo đại diện doanh nghiệp, có thể đại lý lợi dụng khách hàng không để ý, ghi bừa để chiếm dụng tiền của khách hàng, còn thực tế cuống hóa đơn gửi về doanh nghiệp lại ghi theo quy định. Trong tình huống này, dù khách hàng đóng phí cho 02 năm nhưng thực tế họ chỉ được hưởng quyền lợi 01 năm. Từ những bất cập này cho thấy tình trạng quản lý hoạt động đại lý đang được buông lỏng, do đó cần có những biện pháp mạnh mẽ nhằm chấn chỉnh đội ngũ đại lý tham gia phân phối sản phẩm, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ thay vì chỉ tập trung vào cuộc đua giảm giá để dành thị phần như hiện nay(3).
Hai là, xem xét bổ sung trách nhiệm ký quỹ, ký cược của đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Theo quy định pháp luật hiện hành, đại lý phân phối bảo hiểm không phải có trách nhiệm ký quỹ, ký cược trong quá trình hành nghề nên những hành vi chiếm đoạt doanh thu khai thác của doanh nghiệp bảo hiểm hay phí bảo hiểm của khách hàng rồi nghỉ việc diễn ra không ít. Tình trạng này đã gây ra thiệt hại về tài chính lẫn niềm tin cho doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Để khắc phục tình trạng này cần phải nhanh chóng quy định bổ sung trách nhiệm ký quỹ, ký cược của đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Ba là, thống nhất quy định về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo quy định của Điều 26, Luật Kinh doanh bảo hiểm, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó (Luật Kinh doanh bảo hiểm không trao cho Chính phủ quy định chi tiết điều này). Tuy nhiên, khoản 3, Điều 10, Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn còn hiệu lực ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe cơ giới thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũ vẫn còn hiệu lực đối với chủ xe cơ giới mới”. Áp dụng quy định về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới cũ sang chủ xe cơ giới mới chỉ cần thực hiện theo hình thức chuyển giao giấy chứng nhận bảo hiểm mà không cần phải thực hiện các thủ tục như quy định của Điều 26, Luật Kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, mặc dù quy định của Nghị định số 03/2021/NĐ-CP là trái với quy định của Luật nhưng xét trên thực tế, sự thay đổi này là phù hợp và tạo nên cơ chế thuận lợi cho chủ sở hữu phương tiện và bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất cần sửa đổi và cập nhật nội dung này cho dự thảo sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm theo hướng để Chính phủ quy định chi tiết nhằm bảo đảm sự thống nhất trong hành lang pháp lý.
Bốn là, nâng cao nhận thức của chủ xe cơ giới về việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Hiện nay theo thống kê, tỉ lệ tham gia bảo hiểm bắt buộc của xe mô tô ở nước ta vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 30% trong tổng số hơn 61 triệu xe; trong khi tỉ lệ tham gia của xe ô tô lên đến 90% trong tổng số trên 3 triệu xe. Số liệu nghiên cứu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới năm 2020 cũng cho thấy, số vụ tai nạn giao thông liên quan đến nhóm xe mô tô chiếm khoảng 70% tổng số vụ tai nạn giao thông mỗi năm, nhưng tỉ lệ bồi thường trên tổng doanh thu bảo hiểm xe cơ giới chỉ đạt 6%(4). Điều này cho thấy hiện nay chủ xe cơ giới vẫn chưa mặn mà với việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Vì vậy, vấn đề nâng cao nhận thức của chủ xe cơ giới về việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là điều cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay.
Năm là, chú trọng cải tiến và ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Khi cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ thì sức ép chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh covid-19 vừa qua, việc sử dụng mô hình phân phối truyền thống đã đặt ra phép thử cho các doanh nghiệp. Ứng dụng công nghệ số để đổi mới hoạt động, giảm chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh là cơ hội mà nhiều doanh nghiệp cần nắm bắt để tồn tại và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt với bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc của chủ xe cơ giới, khách hàng sẽ nhanh chóng tiếp cận và thuận tiện sử dụng giấy chứng nhận hợp đồng điện tử khi tham gia giao thông mà không lo lắng vì bị mất hay rách nát bản cứng như trước đây. Bên cạnh đó, những phần mềm quản lý hợp đồng bảo hiểm chuyên nghiệp sẽ góp phần cải tiến hiệu suất làm việc và phục vụ nhu cầu của khách hàng trong quá trình ký kết, cập nhật thông tin hợp đồng, thẩm định và yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, đồng thời giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tích và quản lý rủi ro một cách hiệu quả, hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm và phân tích tình hình khai thác hợp đồng một cách có hiệu quả.
Kết luận
Trải qua hơn 30 năm triển khai và thực hiện, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trong đó có bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới đã có những thay đổi tích cực. Để phát huy những thành quả đạt được và khắc phục những hạn chế còn tồn đọng về thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, đòi hỏi cần có sự kết hợp và thực hiện đồng bộ các giải pháp từ nhiều bên: cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội bảo hiểm cho đến doanh nghiệp bảo hiểm và người dân. Theo đó, hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, thay đổi và nâng cao nhận thức của người dân về việc tham gia bảo hiểm thay vì tâm lý đối phó, nâng cao năng lực cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm, ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm, nâng cao chất lượng bán hàng của các kênh phân phối, đầu tư công nghệ thông tin… là những giải pháp cần được đẩy mạnh để góp phần đưa pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thực sự đi vào cuộc sống.
(1) Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010). (2) Lê Minh Thắng, Cần tiếp tục chấn chỉnh thị trường “bảo hiểm xe máy” bắt buộc, http://anhp.vn/can-tiep-tuc-chan-chinh-thi-truong-bao-hiem-xe-may-bat-buoc-d43533.html, ngày 13/8//2022. (3) Viện phát triển bảo hiểm Việt Nam, Cuộc chiến giá rẻ, doanh nghiệp bảo hiểm chịu thiệt, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttncdtbh/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM104296, ngày 13/8/2022. (4) Trần Điệp, Các giải pháp nâng cao hiệu quả về bảo hiểm dân sự của chủ xe cơ giới, https://pbgdpl.haiphong.gov.vn/Nghien-cuu-trao-doi/Cac-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-ve-bao-hiem-dan-su-cua-chu-xe-co-gioi-57465.html, ngày 13/8/2022. |
ThS TRẦN LINH HUÂN
Khoa Luật thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
TRẦN THỊ DIỆN
Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ FWD