/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Phát huy vai trò của Luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Phát huy vai trò của Luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Giai đoạn xét xử vụ án hình sự, đặc biệt là phiên tòa hình sự là giai đoạn quan trọng nhất, trung tâm của Tố tụng hình sự (TTHS). Trong giai đoạn này, với sự có mặt đầy đủ nhất của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, Tòa án sẽ tiến hành cuộc điều tra công khai, trực tiếp xem xét, đánh giá khách quan và đầy đủ nhất các tài liệu, chứng cứ, làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án và ra phán quyết giải quyết vụ án. Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, tất cả những người có mặt tại phiên tòa có thể đánh giá được tính đúng, sai trong hành vi, quan điểm của bị cáo và những người có liên quan đến vụ án, cũng như của Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự,…

Ảnh minh họa.

Giai đoạn xét xử vụ án hình sự cũng là giai đoạn vai trò của Luật sư, với tư cách người bào chữa cho bị cáo, hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qua đến vụ án (“thân chủ”) được thể hiện rõ nét và toàn diện nhất, không chỉ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mà còn góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án một cách khách quan và toàn diện nhất, tạo cơ sở cho Tòa án có thể giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho tất cả các đương sự trong vụ án. 

Trên cơ sở các quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của Luật sư thì trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Luật sư có những vai trò cơ bản như sau:

Thứ nhất: Phần lớn các bị cáo hoặc các đương sự trong vụ án hình sự đều là những người không có hiểu biết pháp luật đầy đủ và chính xác, không biết rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Họ thường thường có tâm lý hoang mang, lo lắng, căng thẳng, đặc biệt là đối với các bị cáo – Người đang là đối tượng bị buộc tội. Do đó, dù tham gia tố tụng với tư cách tố tụng nào, là người bào chữa cho bị cáo hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, thì trước hết Luật sư phải là chỗ dựa tinh thần và pháp lý đáng tin cậy cho thân chủ. Muốn vậy, Luật sư phải nắm bắt được tâm lý của thân chủ, có những sự động viên, khích lệ cần thiết để họ ổn định tinh thần, tư vấn cho họ rõ nội dung pháp lý của vụ án và tình trạng pháp lý, cũng như các quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời Luật sư cũng phải tận tâm, coi việc bảo vệ quyền lợi của thân chủ như bảo vệ quyền lợi của chính mình, phát huy hết năng lực, kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và sử dụng tất cả các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho thân chủ. Qua đó, Luật sư mới có thể lấy được sự tín nhiệm, tin tưởng và hợp tác tích cực của thân chủ, cũng như giúp họ trở nên vững vàng và hiểu biết, sáng suốt hơn trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. 

Thứ hai: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư phải thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, gặp gỡ và trao đổi với thân chủ, để có thể nắm được đầy đủ nội dung vụ án, cũng như đưa ra được những đánh giá về tính khách quan, hợp pháp và đầy đủ của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó, Luật sư sẽ đưa ra kế hoạch, phương hướng tư vấn, bào chữa/bảo vệ cho thân chủ, cũng như kiến nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng, để làm rõ các tình tiết của vụ án, tính xác thực, hợp pháp và toàn diện của các tài liệu, chứng cứ của vụ án, đặc biệt là đối với các tình tiết và tài liệu, chứng cứ có lợi cho thân chủ. 

Trong trường hợp các tài liệu, chứng cứ và các tình tiết có lợi cho thân chủ chưa được làm rõ trong hồ sơ vụ án, hoặc có những vi phạm thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ thì Luật sư phải kịp thời trao đổi, kiến nghị với Tòa án xác minh, thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ, hoặc trả hồ sơ để điều tra lại hoặc điều tra bổ sung để làm rõ các tình tiết và vấn đề đó. 

Bên cạnh đó, Luật sư cũng có quyền chủ động tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật (gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (Khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015) để góp phần làm sáng tỏ các tình tiết có lợi, giúp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.

Kết quả của các hoạt động của Luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sẽ là cơ sở rất quan trọng, để Luật sư có thể xây dựng kế hoạch xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, cũng như xác định phương án bào chữa/bảo vệ phù hợp và hiệu quả nhất cho thân chủ. Nếu Luật sư không làm tốt các công việc cần thiết trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả tranh tụng, cũng như làm suy giảm vai trò của Luật sư tại phiên tòa. 

Thứ ba: Tại phiên tòa hình sự thì vai trò của Luật sư thể hiện chủ yếu và rõ nhất là thông qua việc tham gia động tranh tụng (xét hỏi và tranh luận) tại phiên tòa. Và trong các hoạt động này, Luật sư phải vận dụng linh hoạt và khôn khéo các kiến thức chuyên môn, kỹ năng xét hỏi và tranh luận của mình, để làm sáng tỏ được các tình tiết, tài liệu, chứng cứ và các căn cứ pháp lý có lợi cho thân chủ (như các tình tiết chứng minh bị cáo vô tội, hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, hoặc các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án). Lấy đó làm căn cứ chứng minh cho các quan điểm bào chữa/bảo vệ và yêu cầu của Luật sư trước Tòa án là có căn cứ và hợp pháp. 

So sánh với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 (hiện hành) đã có rất nhiều quy định mới, nâng cao đáng kể địa vị pháp lý của Luật sư trong hoạt động TTHS nói chung và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói riêng. Nhằm cụ thể hóa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 102 Hiến pháp năm 2013) thì tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 đã lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc này. Đây là một bước tiến lớn trong Luật TTHS, tạo ra vị thế bình đẳng và dân chủ hơn cho Luật sư, cũng như đảm bảo tốt hơn tính khách quan và toàn diện trong hoạt động TTHS, nhất là hoạt động xét xử tại phiên tòa. Theo đó, Luật sư có “quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”; “Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án”. Đồng thời, Điều 322 BLTTHS năm 2015 về tranh luận tại phiên tòa cũng đã bổ sung nhiều quy định mới như: “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”; “Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”; “Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”… Có thể nói những quy định mới này là rất tiến bộ, đã tạo ra những cơ sở pháp lý rất thuận lợi cho Luật sư trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự.

Phần đông các bị cáo và các đương sự (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) là không có kiến thức pháp luật chuyên sâu và thiếu kỹ năng trong việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Kết hợp với tâm lý căng thẳng, lo lắng nên thường bị rơi vào thế bị động, lúng túng trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có thể không hiểu và trả lời đúng các câu hỏi, hoặc không thể đưa ra các quan điểm, chứng cứ để bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, nhiều khi còn tự gây bất lợi cho chính mình. Vì vậy, sự đồng hành của Luật sư có một ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là chỗ dựa tinh thần, giúp cho các bị cáo và các đương sự bình tĩnh và tự tin hơn mà còn trợ giúp rất hiệu quả cho họ trong việc xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường tính dân chủ, cân bằng, khách quan và hiệu quả cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. 

Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, vai trò của Luật sư không chỉ dừng lại ở việc bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo hoặc các đương sự mà còn đảm bảo cho quá trình xét xử được dân chủ, minh bạch, toàn diện và chính xác hơn. Các ý kiến, quan điểm và tài liệu, chứng cứ mà các Luật sư đưa ra sẽ tạo ra cơ chế kiểm tra chéo giữa các chứng cứ, cọ sát giữa các quan điểm khác nhau, giúp Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể đánh giá và sử dụng đúng đắn các chứng cứ, xác định chính xác và đầy đủ sự thật khách quan của vụ án, tránh việc xét xử phiến diện, một chiều, dễ dẫn đến oan, sai, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Có rất nhiều vụ án mà khi thông qua phần xét hỏi và tranh luận của Luật sư tại phiên tòa đã làm sáng tỏ thêm nhiều tình tiết hoặc vấn đề quan trọng, dẫn đến sự thay đổi nội dung, bản chất pháp lý của vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời khắc phục những thiếu sót và Tòa án có được những bản án, quyết định giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay vẫn phát sinh những thiếu xót, bất cập, làm hạn chế vai trò của Luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, cũng như ảnh hưởng đến tính dân chủ, khách quan và toàn diện trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, thực tiễn vẫn có những HĐXX còn mang nặng tư tưởng “án tại hồ sơ”, không coi trọng vai trò của Luật sư, không chú ý lắng nghe, xem xét và đánh giá khách quan và đầy đủ các ý kiến tranh luận, đối đáp của Luật sư và các đương sự. Tình trạng Luật sư bị hạn chế quyền gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, hay tiếp xúc với bị cáo tại phiên tòa vẫn còn tồn tại. Nhiều Chủ tọa phiên tòa vẫn còn hạn chế thời gian tranh luận, hoặc dừng, ngắt lời, không cho Luật sư trình bày hết ý kiến, gây ra những cản trở, khó khăn không nhỏ cho quá trình tranh tụng của Luật sư. Tại không ít phiên tòa, Luật sư đã phải tranh luận, đối đáp với cả Chủ tọa phiên tòa để có thể được trình bày đầy đủ các quan điểm và yêu cầu của mình.   

Nhiều HĐXX chưa lấy kết quả tranh tụng, thẩm tra, đánh giá chứng cứ công khai tại phiên tòa làm cơ sở cho việc nghị án và ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án; biên bản phiên toà cũng không phản ánh đầy đủ nội dung diễn biến của phiên toà; có nhiều bản án vẫn chưa ghi nhận và xem xét, đánh giá khách quan và đầy đủ các ý kiến tranh luận của Luật sư, làm giảm tính khách quan và thuyết phục của bản án, thậm chí là giải quyết vụ án không chính xác, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và các đương sự. 

Thứ hai: Nhiều Kiểm sát viên không chủ động, tích cực tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có tranh luận thì cũng hời hợt, chung chung, thậm chí là né tranh luận; không tranh luận, đối đáp đến cùng đối với từng ý kiến mà Luật sư đưa ra theo đúng quy định. Trong khi đó, mực dù Luật sư đã đề nghị nhưng nhiều Chủ tọa phiên tòa vẫn “làm ngơ”, không yêu cầu Kiểm sát viên phải đối đáp lại từng ý kiến của Luật sư theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 322 BLTTHS năm 2015. Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tranh luận tụng tại phiên tòa. Nếu Kiểm sát viên không hợp tác, không chịu tranh luận, đối đáp thì vai trò của Luật sư cũng bị giảm đáng kể khi không thể tranh luận, đối đáp đến cùng, để xác định chính xác các tài liệu, chứng cứ và các tình tiết của vụ án có lợi, chứng minh cho các quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. 

Thứ ba: Một số Luật sư còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề, thực hiện không tốt việc chuẩn bị tham gia phiên tòa, cũng như việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa (xét hỏi lặp lại, không đúng vấn đề, tranh luận hời hợt, hoặc phát biểu dài dòng, lạc trọng tâm và không thuyết phục). Và do đó, Luật sư đã không thể hiện được đầy đủ vai trò tố tụng, cũng như các chức năng và nhiệm vụ của mình tại phiên tòa.

Như vậy có thể thấy, vị thế và vai trò của Luật sư trong các hoạt động TTHS đang ngày càng được đề cao. Khi tham gia TTHS nói chung và tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng, đã phần các Luật sư đã khẳng định được vai trò, tích cực tham gia xét hỏi và tranh luận, với nhiều câu hỏi và lý lẽ sắc bén, góp phần bảo vệ các quyền lợi hợp pháp cho thân chủ, cũng như giúp HĐXX có những nhận định và đánh giá khách quan, toàn diện về các chứng cứ, tình tiết của vụ án, ra được các bản án, quyết định khách quan và đúng pháp luật. 

Tuy nhiên thực tiễn vẫn còn không ít những khó khăn và trở ngại, đòi hỏi đội ngũ Luật sư phải luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thiện chính mình, không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp, để có thể phát huy tốt nhất vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động TTHS nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Mặt khác, Luật TTHS và hệ thống tư pháp hình sự cũng cần phải có những cải cách và đổi mới tiến bộ hơn nữa, tiếp tục tạo ra những cơ sở pháp lý và thực tiễn thuận lợi hơn nữa cho các Luật sư, giúp cho các Luật sư có thể phát huy hiệu quả nhất vai trò và chức năng tố tụng của mình, góp phần bảo vệ công lý, cũng như tăng cường tính dân chủ, bình đẳng, khách quan và chính xác trong các hoạt động TTHS.

Thạc sĩ. Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội

Một số bất cập và hạn chế trong quy định về án phí dân sự và án phí hình sự

Admin