Dựa trên lý thuyết đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết 68-NQ/TW, nghiên cứu áp dụng phương pháp hỗn hợp (phân tích tài liệu, khảo sát thực địa, mô hình SWOT) để đánh giá thực trạng. Kết quả cho thấy MTTQVN là “điểm tựa vững chắc” cho KTTN qua giám sát chính sách và vận động nguồn lực, nổi bật sau Hội thảo Quốc gia tháng 10/2025. Thách thức chính là tích hợp chuyển đổi số để nâng cao phản biện. Bài báo đề xuất “Nền tảng số giám sát KTTN” dựa trên Cổng Mặt trận số, góp phần đạt mục tiêu kinh tế số chiếm 30% GDP năm 2030. Nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách, thúc đẩy đại đoàn kết toàn dân tộc trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Mở đầu
Sau Đại hội XIII của Đảng năm 2021, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, với KTTN được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Theo Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, khu vực này phải trở thành trụ cột, đóng góp trên 50% GDP và tạo việc làm cho hơn 80% lực lượng lao động đến năm 2030. Đến năm 2025, KTTN đã đạt gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và việc làm cho 82% lao động xã hội, khẳng định vị thế then chốt trong phục hồi hậu COVID-19 và chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển vẫn đối mặt rào cản như thủ tục hành chính phức tạp, tiếp cận tín dụng hạn chế và thiếu đồng thuận xã hội về trách nhiệm bền vững. MTTQVN - cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân theo Điều 9 Hiến pháp 2013 - đóng vai trò cầu nối quan trọng qua giám sát, phản biện xã hội và vận động đại đoàn kết toàn dân tộc. Hội thảo Quốc gia “Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN” ngày 13/10/2025 tại Hà Nội nhấn mạnh MTTQVN là “điểm tựa vững chắc” cho KTTN, đặc biệt theo Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2024 về đổi mới, nâng cao hiệu quả phát triển khu vực này. Nghiên cứu tập trung cơ chế giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN và các tổ chức thành viên như Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp chuyển đổi số phù hợp Chiến lược Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng 2030. Mục tiêu nghiên cứu bao gồm phân tích vai trò của MTTQVN trong thúc đẩy KTTN qua lăng kính đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh giá cơ chế giám sát và phản biện xã hội hiện hành, cũng như đề xuất giải pháp chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2030. Phạm vi nghiên cứu giới hạn dữ liệu từ 2020 - 2025, với case study tại các tỉnh trọng điểm KTTN như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương. Ý nghĩa lý luận bổ sung cơ sở khoa học cho lý thuyết đại đoàn kết trong kinh tế số, trong khi ý nghĩa thực tiễn đóng góp triển khai Cổng Mặt trận số và Nghị quyết 68-NQ/TW.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc là nền tảng, coi “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” là sức mạnh vô địch để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong kinh tế thị trường, đại đoàn kết mở rộng sang hợp tác công - tư, với MTTQVN làm trung tâm tập hợp các tầng lớp nhân dân, bao gồm doanh nhân tư nhân. Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 và Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2024 khẳng định KTTN là động lực quan trọng, đòi hỏi cơ chế giám sát xã hội để đảm bảo phát triển bền vững, minh bạch và trách nhiệm xã hội. Chuyển đổi số là công cụ then chốt, theo Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025 (Quyết định 749/QĐ-TTg năm 2020), nhằm nâng cao hiệu quả giám sát qua dữ liệu lớn và AI. Các nghiên cứu trước tập trung vai trò MTTQVN trong giám sát nhà nước theo Nguyễn Phú Trọng năm 2021, nhưng ít đề cập KTTN. Gần đây, Hội thảo 13/10/2025 bổ sung bằng cách nhấn mạnh phản biện của các tổ chức thành viên trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Lỗ hổng là thiếu mô hình số hóa cụ thể cho giám sát KTTN, mà nghiên cứu này sẽ lấp đầy.
Thực trạng vai trò của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong thúc đẩy KTTN
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, hướng tới mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển cao vào năm 2045, KTTN nổi lên như một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ góc nhìn chính trị học, vai trò của MTTQVN và các tổ chức thành viên không chỉ là một cơ chế tổ chức hành chính mà còn là biểu hiện sống động của nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc - một di sản lý luận cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết, theo Bác Hồ, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam, nơi các giai tầng xã hội, từ công nhân, nông dân đến trí thức và doanh nhân, được huy động vào một khối thống nhất để thực hiện sứ mệnh dân giàu, nước mạnh [1]. Trong giai đoạn 2025 - 2030, khi KTTN được khẳng định là “một động lực quan trọng” theo Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị [2], MTTQVN không chỉ đóng vai trò cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân mà còn là lực lượng tiên phong trong việc giám sát, phản biện xã hội, đảm bảo sự phát triển KTTN hài hòa với lợi ích chung, tránh những lệch lạc có thể dẫn đến bất bình đẳng xã hội hoặc suy thoái đạo đức cách mạng. Phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ thực trạng này qua lăng kính chính trị học biện chứng, kết hợp giữa đánh giá tổng quát và các biểu hiện cụ thể, nhằm làm nổi bật những thành tựu, hạn chế và hàm ý chiến lược cho việc phát huy vai trò của MTTQVN trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Vai trò tổng quát
Từ vị thế là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” theo Điều 9 Hiến pháp 2013 và Luật MTTQVN 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025), MTTQVN đã và đang khẳng định vai trò then chốt trong việc thúc đẩy KTTN thông qua việc tập hợp, tuyên truyền và hành động cụ thể, góp phần thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” - một mô hình dân chủ XHCN đặc trưng của Việt Nam. Trong năm 2025, theo Báo cáo hoạt động của Ủy ban Trung ương MTTQVN, Mặt trận và hệ thống các tổ chức thành viên đã vận động hơn 50 triệu đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào thi đua yêu nước, trong đó hơn 20 triệu người trực tiếp liên quan đến các hoạt động hỗ trợ KTTN, từ khởi nghiệp số đến hợp tác xã nông nghiệp hiện đại [3]. Điều này không chỉ phản ánh sức sống của đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý thuyết chính trị Marx về liên minh công - nông - trí thức mở rộng sang khu vực doanh nhân tư nhân, nơi MTTQVN đóng vai trò “người bạn đồng hành” để biến tiềm năng kinh tế thành động lực phát triển bền vững.
Cụ thể, năm tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc MTTQVN - bao gồm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam, Hội NDVN và Hội CCB Việt Nam - đã trở thành những “cánh tay nối dài” của Mặt trận, với mạng lưới cơ sở rộng khắp từ trung ương đến thôn, bản. Những tổ chức này không chỉ đại diện cho các giai tầng xã hội mà còn là công cụ chính trị để giám sát và phản biện, đảm bảo KTTN phát triển trong khuôn khổ lợi ích quốc gia, tránh những biểu hiện tiêu cực như lạm dụng quyền lực kinh tế hoặc xâm phạm quyền lợi lao động. Theo khảo sát thực địa do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện tháng 9/2025 trên 500 doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại các tỉnh trọng điểm (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Đà Nẵng), 65% doanh nghiệp đánh giá MTTQVN là “cầu nối hiệu quả” giữa họ và chính sách nhà nước, với tỷ lệ cao nhất ở khía cạnh hỗ trợ tiếp cận vốn tín dụng (72%) và tư vấn pháp lý (68%) [4]. Kết quả này khẳng định giá trị chính trị của MTTQVN như một thể chế trung gian, giúp giảm khoảng cách giữa lý thuyết chính sách và thực tiễn kinh tế, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Để minh họa cụ thể hơn, có thể phân tích vai trò của từng tổ chức thành viên qua lăng kính đóng góp định lượng và định tính, dựa trên dữ liệu cập nhật từ các báo cáo chính thức năm 2025. Hội NDVN, với hơn 10,2 triệu hội viên (tăng 275.000 so với năm 2024 nhờ các chiến dịch kết nạp mới) [5], đã dẫn dắt phong trào “Nông dân số hóa” bằng cách hỗ trợ hơn 50.000 hợp tác xã chuyển đổi số, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nông sản xuất khẩu lên 15% so với năm trước [6]. Tổng LĐLĐ Việt Nam, phấn đấu đạt 13,5 triệu đoàn viên vào cuối năm 2025 (tăng 1,6 triệu so với 2024) [7], tập trung vào đàm phán tập thể lao động trong môi trường số, bảo vệ quyền lợi cho hơn 8 triệu lao động tại các DNTN, giảm tỷ lệ tranh chấp lao động xuống dưới 5% [8]. Hội LHPN Việt Nam, với 19,5 triệu hội viên, đã triển khai chương trình “Phụ nữ khởi nghiệp xanh”, hỗ trợ hơn 100.000 doanh nhân nữ tiếp cận quỹ đầu tư mạo hiểm, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong KTTN [9]. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, quy tụ 6,8 triệu đoàn viên (tăng nhờ phát triển 22.000 đoàn viên mới tại các tỉnh miền núi) [10], dẫn dắt các phong trào tình nguyện khởi nghiệp số, kết nối hơn 200.000 thanh niên với các nền tảng thương mại điện tử [11]. Cuối cùng, Hội CCB Việt Nam, với 2,7 triệu hội viên, cung cấp tư vấn an ninh kinh tế cho hơn 30.000 doanh nghiệp, giúp giảm rủi ro an ninh mạng lên đến 25% thông qua các hội thảo chuyên đề [12]. Những đóng góp này không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, khi chúng củng cố khối đại đoàn kết bằng cách tích hợp KTTN vào hệ thống giá trị XHCN, tránh tình trạng “tư nhân hóa” lệch lạc có thể dẫn đến phân hóa giàu nghèo.
Bảng 1 dưới đây tổng hợp các đóng góp cụ thể của các tổ chức thành viên dựa trên dữ liệu từ Báo cáo hoạt động MTTQVN 2025, phản ánh sự đa dạng và tính bổ trợ lẫn nhau trong việc thúc đẩy KTTN.

Từ bảng trên, có thể thấy sự phân công lao động chính trị rõ nét: các tổ chức thành viên không chỉ hỗ trợ kinh tế mà còn thực hiện chức năng giám sát, phản biện bằng cách thu thập ý kiến từ cơ sở, đảm bảo chính sách KTTN phù hợp với lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên, từ góc nhìn biện chứng, thực trạng này vẫn tồn tại những mâu thuẫn nội tại, như sự chênh lệch giữa khu vực đô thị (nơi đóng góp cao hơn 40%) và nông thôn (chỉ 25%), đòi hỏi MTTQVN phải tăng cường cơ chế chuyển đổi số để cân bằng.
Thực tiễn sau Hội thảo Quốc gia ngày 13/10/2025
Hội thảo Quốc gia “Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN” ngày 13/10/2025 tại Hà Nội, do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN phối hợp với Học viện Tài chính tổ chức, đánh dấu một mốc son trong việc cụ thể hóa Nghị quyết 68-NQ/TW [13]. Với sự tham gia của hơn 500 đại biểu từ các bộ, ngành, địa phương và DNTN, hội thảo không chỉ là diễn đàn lý luận mà còn là không gian thực tiễn để MTTQVN khẳng định vị thế như “điểm tựa vững chắc” cho KTTN, theo lời Phó Chủ tịch Thường trực Trần Thanh Mẫn [14]. Sự kiện này thể hiện sự vận dụng sáng tạo nguyên tắc “lấy dân làm gốc” của tư tưởng Hồ Chí Minh, nơi MTTQVN chuyển từ vai trò tuyên truyền sang hành động cụ thể, giám sát việc thực thi nghị quyết để tránh tình trạng “nói nhiều làm ít” - một thách thức phổ biến trong quản lý nhà nước XHCN [15].
Các đề xuất chính từ hội thảo tập trung vào ba nội dung cốt lõi: (i) Tăng cường giám sát thực thi Nghị quyết 68-NQ/TW, đặc biệt trong việc giảm chi phí không chính thức cho doanh nghiệp (ước tính chiếm 10 - 15% chi phí hoạt động) thông qua mạng lưới cơ sở MTTQ; (ii) Phát huy phản biện xã hội để hoàn thiện chính sách thuế, đất đai và tín dụng, đảm bảo KTTN đóng góp ít nhất 55% GDP vào năm 2030; (iii) Xây dựng các chương trình hành động cụ thể, như quỹ hỗ trợ khởi nghiệp số với vốn ban đầu 10.000 tỷ VND từ nguồn xã hội hóa [16]. Những đề xuất này đã được cụ thể hóa ngay sau hội thảo, với việc MTTQVN phối hợp các tổ chức thành viên tổ chức hơn 200 hội nghị đối thoại tại cơ sở từ tháng 10 đến tháng 11/2025, thu thập hơn 5.000 ý kiến từ doanh nghiệp [17].
Kết quả khảo sát hậu hội thảo (thực hiện trên 300 doanh nghiệp tham gia, do Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương phối hợp) cho thấy 70% doanh nghiệp mong muốn MTTQVN tăng cường phản biện về chính sách thuế (giảm thuế VAT cho startup số) và đất đai (ưu tiên quỹ đất công nghiệp sạch), với tỷ lệ hài lòng về vai trò giám sát tăng từ 55% (năm 2024) lên 68% [18]. Hơn nữa, các tổ chức thành viên đã hành động nhanh chóng: Hội Nông dân hỗ trợ 10.000 hộ kinh doanh nông thôn tiếp cận đất sản xuất; Tổng Liên đoàn Lao động ký 500 thỏa ước lao động tập thể số; và Đoàn Thanh niên triển khai “Hackathon KTTN 2025” với 1.000 ý tưởng khởi nghiệp được chọn lọc [19]. Những thực tiễn này không chỉ góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 8,3 - 8,5% năm 2025 mà còn củng cố nền tảng chính trị cho đại đoàn kết, bằng cách biến KTTN thành “người bạn” của sự nghiệp cách mạng, tránh những rủi ro như tham nhũng hoặc bất bình đẳng [20].
Tuy nhiên, từ phân tích biện chứng, thực tiễn sau hội thảo vẫn lộ rõ những hạn chế: chỉ 40% doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) tiếp cận được hỗ trợ do thiếu cơ chế số hóa đồng bộ, đòi hỏi MTTQVN phải đẩy mạnh chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả giám sát [21]. Điều này nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về một mô hình chính trị mới, nơi MTTQVN không chỉ phản biện mà còn tiên phong trong việc xây dựng “hệ sinh thái số đại đoàn kết”, hướng tới giai đoạn 2025 - 2030.
Cơ chế giám sát và phản biện xã hội
Từ góc nhìn chính trị học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN không chỉ là công cụ hành chính kỹ thuật mà còn là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc dân chủ XHCN, nơi nhân dân thực sự làm chủ qua sự tham gia tích cực vào quản lý nhà nước và xã hội. Trong giai đoạn 2025 - 2030, khi KTTN được khẳng định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” theo Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị [22], cơ chế này trở thành yếu tố then chốt để đảm bảo phát triển KTTN hài hòa với lợi ích giai cấp, dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân là gốc” - coi nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng - được thể hiện rõ nét qua vai trò MTTQVN như “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, giúp ngăn chặn lệch lạc dẫn đến bất bình đẳng xã hội, “lợi ích nhóm” hoặc suy thoái đạo đức kinh doanh [23]. Phân tích biện chứng cho thấy cơ chế này là sự thống nhất giữa nhà nước và tư nhân, với MTTQVN cùng các tổ chức thành viên (như Công đoàn, Hội Nông dân) làm trung gian để biến KTTN thành lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, củng cố nền tảng chính trị hệ thống XHCN. Phần phân tích dưới đây làm rõ cơ chế hiện hành và thách thức, cung cấp cơ sở khoa học cho mô hình giám sát số hóa, góp phần thực hiện mục tiêu KTTN đóng góp 55 - 58% GDP năm 2030.
Cơ chế hiện hành
Cơ chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN được xây dựng trên nền tảng pháp lý vững chắc, bao gồm Hiến pháp 2013 (Điều 9), Luật số 97/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật MTTQVN 2015 và Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN và các đoàn thể chính trị - xã hội [24]. Theo đó, MTTQVN thực hiện giám sát qua ba kênh chính, được vận dụng linh hoạt để phù hợp với bối cảnh phát triển KTTN: (1) Phê chuẩn ứng cử viên bầu cử, đảm bảo các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đại diện cho lợi ích của doanh nhân tư nhân và người lao động; (2) Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tập trung vào việc thực thi chính sách hỗ trợ KTTN như tiếp cận tín dụng và đất đai; (3) Phản biện xã hội qua các hội nghị, hội thảo và chương trình vận động, nơi MTTQVN tổng hợp ý kiến từ cơ sở để kiến nghị sửa đổi chính sách [25]. Những kênh này không chỉ mang tính hình thức mà còn thể hiện sự lãnh đạo của Đảng thông qua Đảng ủy MTTQVN, đảm bảo tính khoa học và dân chủ trong giám sát.
Trong lĩnh vực KTTN, cơ chế này đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 giao nhiệm vụ cho MTTQVN tham gia rà soát, hoàn thiện pháp luật về phát triển KTTN. Cụ thể, trong năm 2025, MTTQVN và các tổ chức thành viên đã phối hợp với Quốc hội và Chính phủ để góp phần sửa đổi 15 văn bản pháp luật quan trọng, bao gồm Luật Doanh nghiệp số 76/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung các quy định miễn giảm thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo) và Luật số 90/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư (giảm 25 ngành nghề kinh doanh có điều kiện) [26]. Những sửa đổi này đã góp phần giảm 20% thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh và cấp phép đầu tư, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giúp gần 256.000 DNTN thành lập mới hoặc quay trở lại hoạt động trong 10 tháng đầu năm 2025, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2024 [27]. Ví dụ, qua kênh phản biện xã hội tại Hội thảo Quốc gia ngày 13/10/2025, MTTQVN đã kiến nghị và thúc đẩy việc bổ sung cơ chế giám sát “lợi ích nhóm” trong đấu thầu công, dẫn đến việc sửa đổi các quy định liên quan trong Luật Đấu thầu [28]. Đồng thời, các tổ chức thành viên như Tổng LĐLĐ Việt Nam đã chủ trì giám sát thỏa ước lao động tập thể tại hơn 8 triệu lao động ở DNTN, đảm bảo quyền lợi người lao động trong môi trường số hóa [29].
Để đánh giá toàn diện cơ chế hiện hành, có thể áp dụng mô hình phân tích SWOT từ lý thuyết chính trị học hiện đại, coi đây là công cụ biện chứng nhận diện mâu thuẫn nội tại và ngoại tại trong hệ thống giám sát. Điểm mạnh (S) nổi bật là mạng lưới rộng lớn của MTTQVN với hơn 50 triệu đoàn viên, hội viên từ các tổ chức thành viên, tạo sức mạnh tập thể thu thập ý kiến thực tiễn từ cơ sở, đặc biệt ở nông thôn và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) - chiếm 90% tổng số DNTN [30]. Uy tín cao từ truyền thống đại đoàn kết giúp kiến nghị phản biện có sức nặng chính trị, như phối hợp Quốc hội rà soát pháp luật theo Nghị quyết 68-NQ/TW, cắt giảm 30% chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp. Điểm yếu (W) chủ yếu là thiếu đồng bộ công cụ số hóa, khiến tổng hợp dữ liệu từ kênh giám sát còn thủ công, gây độ trễ phản biện (ví dụ: xử lý ý kiến doanh nghiệp kéo dài 2-3 tháng) [31]. Cơ hội (O) lớn từ Chiến lược Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025 (Quyết định 749/QĐ-TTg), cho phép MTTQVN tích hợp Cổng Dịch vụ công Quốc gia để giám sát thời gian thực, hỗ trợ kinh tế số chiếm 30% GDP [32]. Thách thức (T) từ tuyên truyền sai lệch trên mạng xã hội - như chiến dịch chống phá KTTN trên nền tảng X (Twitter) - đòi hỏi nâng cao năng lực phản biện số bảo vệ đồng thuận xã hội [33]. Tổng thể, SWOT khẳng định cơ chế hiện hành là nền tảng vững chắc cho đại đoàn kết, nhưng cần đổi mới vượt mâu thuẫn truyền thống - hiện đại trong bối cảnh CNH, HĐH.
Thách thức
Mặc dù cơ chế giám sát và phản biện xã hội đã khẳng định hiệu quả, nhưng từ phân tích biện chứng chính trị học, vẫn tồn tại những mâu thuẫn nội tại và ngoại tại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, nơi KTTN đối mặt với rủi ro như bất bình đẳng kỹ thuật số hoặc an ninh mạng. Khảo sát của Viện Nghiên cứu Chính trị học (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) tháng 10/2025 trên 150 cán bộ MTTQVN tại 10 tỉnh trọng điểm kinh tế cho thấy, 55% cán bộ gặp khó khăn lớn trong tiếp cận dữ liệu DNTN do thiếu tích hợp số hóa đồng bộ giữa các kênh giám sát [34]. Cụ thể, việc thu thập thông tin từ doanh nghiệp SMEs - chiếm 97% tổng số DNTN - thường bị hạn chế bởi hạ tầng số yếu kém ở cấp cơ sở, dẫn đến tỷ lệ phản ánh ý kiến chỉ đạt 40% so với mục tiêu 70% theo Nghị quyết 68-NQ/TW. Thách thức này không chỉ là kỹ thuật mà còn mang tính chính trị sâu sắc: nó làm suy yếu khả năng MTTQVN trong việc phát hiện kịp thời các vấn đề như “lợi ích nhóm” trong phân bổ tín dụng hoặc tranh chấp lao động số, từ đó ảnh hưởng đến sự đồng thuận xã hội và đại đoàn kết toàn dân tộc [35].
Hơn nữa, chuyển đổi số mang lại những thách thức kép: một mặt, nó mở ra cơ hội giám sát thời gian thực qua các nền tảng như Cổng Mặt trận số (triển khai thí điểm từ tháng 8/2025), nhưng mặt khác, lại lộ rõ khoảng cách kỹ năng số giữa cán bộ MTTQ và doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ KH&CN, 49,1% DNTN coi thiếu nhân lực số là rào cản lớn nhất trong chuyển đổi, trong khi MTTQVN gặp khó khăn tương tự với chỉ 35% cán bộ được đào tạo cơ bản về AI và dữ liệu lớn [36]. Điều này dẫn đến tình trạng “khoảng cách kỹ thuật số” giữa đô thị (nơi giám sát đạt hiệu quả 75%) và nông thôn (chỉ 45%), làm gia tăng nguy cơ bất bình đẳng giai cấp trong KTTN [37]. Ngoài ra, thách thức từ môi trường bên ngoài như an ninh mạng - với hơn 1.000 vụ tấn công nhắm vào DNTN năm 2025 - đòi hỏi MTTQVN phải nâng cao vai trò giám sát, nhưng hiện nay, chỉ 20% các tổ chức thành viên có công cụ phát hiện rủi ro số [38]. Từ góc nhìn chính trị học, những thách thức này phản ánh mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới (kinh tế số) và quan hệ sản xuất truyền thống, đòi hỏi MTTQVN phải đổi mới cơ chế để biến thách thức thành động lực, đảm bảo KTTN phát triển bền vững trong khuôn khổ XHCN. Việc khắc phục sẽ góp phần thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, hướng tới mục tiêu Việt Nam hùng cường năm 2045 [23].
Giải pháp chuyển đổi số trong bối cảnh đại đoàn kết toàn dân tộc 2025 - 2030
Từ vị thế là một trong những khâu đột phá chiến lược của công cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, chuyển đổi số không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là biểu hiện sống động của nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc - nền tảng lý luận cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn 2025 - 2030, khi Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, KTTN được khẳng định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” theo Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị [39], chuyển đổi số trở thành yếu tố quyết định để MTTQVN và các tổ chức thành viên phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, biến tiềm năng KTTN thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân là gốc, lấy dân làm gốc” được vận dụng sáng tạo ở đây, coi chuyển đổi số là phương tiện để huy động mọi tầng lớp nhân dân - từ doanh nhân tư nhân đến kiều bào, từ cộng đồng tôn giáo đến người dân cơ sở - tham gia xây dựng nền kinh tế số, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, tránh những mâu thuẫn biện chứng có thể dẫn đến bất bình đẳng kỹ thuật số hoặc phân hóa xã hội [40]. Phân tích chính trị học cho thấy, giải pháp chuyển đổi số không phải là sự áp đặt công nghệ lên hệ thống chính trị mà là quá trình biện chứng, nơi MTTQVN làm trung tâm để tích hợp công nghệ vào cơ chế đại đoàn kết, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế số chiếm 30% GDP vào năm 2030 theo Chiến lược Chuyển đổi số Quốc gia [41]. Phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ các giải pháp cụ thể, từ triển khai nền tảng sẵn có đến đề xuất mô hình mới, nhằm cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện Đề án Chuyển đổi số MTTQVN giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2035 [42].
Triển khai Cổng Mặt trận số
Triển khai Cổng Mặt trận số (app.mattranso.vn) từ tháng 8/2025 đánh dấu một bước ngoặt chiến lược trong việc hiện đại hóa hoạt động của MTTQVN, thể hiện sự lãnh đạo tiên phong của Đảng trong việc vận dụng khoa học công nghệ vào xây dựng hệ thống chính trị XHCN. Theo Hội nghị trực tuyến toàn quốc ngày 15/8/2025 do Ủy ban Trung ương MTTQVN tổ chức, nền tảng này được thiết kế bám sát các nhiệm vụ cốt lõi của công tác Mặt trận, bao gồm 5 phần mềm cốt lõi: (1) Phần mềm cơ sở dữ liệu trực tuyến, chuẩn hóa thông tin về hơn 50 triệu đoàn viên, hội viên từ các tổ chức thành viên để hỗ trợ giám sát KTTN; (2) Phần mềm tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp, tích hợp với Cổng Dịch vụ công Quốc gia; (3) Bản đồ dân sinh số, vẽ nên bức tranh toàn diện về khu dân cư và hoạt động kinh tế cơ sở, đặc biệt ở khu vực nông thôn nơi KTTN chiếm tỷ lệ cao trong sản xuất hàng hóa; (4) AI phân tích rủi ro, sử dụng trí tuệ nhân tạo để dự báo các vấn đề như tranh chấp lao động hoặc rủi ro an ninh mạng tại DNTN; (5) Nền tảng giám sát kinh tế, kết nối dữ liệu từ các tổ chức thành viên để theo dõi thực thi chính sách theo Nghị quyết 68-NQ/TW [43]. Những phần mềm này không chỉ nâng cao hiệu quả hành chính mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc: chúng biến MTTQVN thành “người bạn đồng hành số” của nhân dân, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bằng cách minh bạch hóa giám sát, giảm khoảng cách giữa chính sách trung ương và thực tiễn cơ sở.
Đến cuối năm 2025, theo Báo cáo sơ bộ của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQVN, Cổng Mặt trận số đã tiếp nhận hơn 500.000 phản ánh từ DNTN, tập trung vào các vấn đề như tiếp cận tín dụng (chiếm 35%), thủ tục hành chính (28%) và bảo vệ quyền lợi lao động số (22%), dẫn đến việc xử lý kịp thời hơn 300.000 trường hợp và nâng cao hiệu quả phản biện xã hội lên 40% so với giai đoạn trước chuyển đổi [44]. Ví dụ, tại tỉnh Bắc Ninh - một trung tâm KTTN với hơn 15.000 doanh nghiệp - nền tảng đã hỗ trợ giám sát việc thực thi ưu đãi thuế theo Nghị quyết 68, giảm thời gian xử lý khiếu nại từ 45 ngày xuống còn 15 ngày, góp phần tăng số lượng doanh nghiệp mới thành lập lên 26,5% so với năm 2024 [45]. Từ góc nhìn chính trị học biện chứng, thành tựu này phản ánh sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất số hóa và quan hệ sản xuất XHCN, nơi MTTQVN không chỉ giám sát mà còn vận động đại đoàn kết bằng cách tích hợp ý kiến từ các tổ chức thành viên như Hội NDVN (hỗ trợ chuyển đổi số nông nghiệp cho 50.000 hợp tác xã) và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (tổ chức các lớp đào tạo số cho 200.000 thanh niên khởi nghiệp) [46]. Tuy nhiên, để tối ưu hóa, cần mở rộng đào tạo cho cán bộ cơ sở, đảm bảo 100% chi hội MTTQ sử dụng nền tảng vào năm 2026, theo Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2025-2028 của Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN tỉnh An Giang và các địa phương khác [47]. Việc triển khai này không chỉ là bước đi kỹ thuật mà còn là hành động chính trị, góp phần xây dựng “hệ sinh thái số đại đoàn kết”, nơi mọi tầng lớp nhân dân đều tham gia giám sát KTTN, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Công nghệ phải phục vụ nhân dân, vì nhân dân” [40].
Đề xuất mô hình “Nền tảng số giám sát KTTN”
Để khắc phục những hạn chế của cơ chế truyền thống và tận dụng cơ hội từ chuyển đổi số, nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình “Nền tảng số giám sát KTTN” - một hệ thống tích hợp toàn diện, lấy MTTQVN làm trung tâm, nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW. Mô hình này được thiết kế theo kiến trúc ba tầng, dựa trên nguyên tắc biện chứng giữa minh bạch, hiệu quả và dân chủ, kết nối dữ liệu từ hơn 70 tổ chức thành viên của MTTQVN với hệ thống dữ liệu quốc gia, đảm bảo KTTN phát triển bền vững mà không làm suy yếu nền tảng XHCN [39]. Cụ thể:
Tầng dữ liệu: Tập trung vào việc kết nối dữ liệu thời gian thực từ các tổ chức thành viên (như Tổng LĐLĐ Việt Nam cung cấp dữ liệu lao động số) và cơ quan nhà nước (Bộ Tài chính về đăng ký doanh nghiệp), sử dụng công nghệ blockchain để đảm bảo minh bạch và chống giả mạo. Ví dụ, nền tảng sẽ tích hợp dữ liệu từ hơn 255.800 doanh nghiệp mới thành lập năm 2025, giúp phát hiện kịp thời các rào cản như chi phí không chính thức (ước tính 10 - 15% chi phí hoạt động) [48]. Blockchain ở đây không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn mang ý nghĩa chính trị: nó củng cố niềm tin của doanh nhân tư nhân vào sự công bằng của hệ thống, tránh tình trạng “lợi ích nhóm” và thúc đẩy đại đoàn kết giữa nhà nước và tư nhân.
Tầng phân tích: Sử dụng AI và học máy để dự báo rủi ro, chẳng hạn như phát hiện tham nhũng trong đấu thầu công (dựa trên phân tích dữ liệu giao dịch) hoặc dự báo tranh chấp lao động tại doanh nghiệp số. Theo mô hình dự báo sơ bộ sử dụng dữ liệu từ Cổng Mặt trận số, AI có thể giảm 20% rủi ro tham nhũng bằng cách phân tích mẫu hình bất thường, tương tự hệ thống 3 nền tảng số giám sát Nghị quyết 57-NQ/TW về khoa học công nghệ [49]. Từ góc nhìn chính trị học, tầng này thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý thuyết Marx về nhận thức biện chứng, nơi dữ liệu lớn trở thành “vũ khí” để MTTQVN dự báo và ngăn chặn mâu thuẫn giai cấp trong KTTN, đảm bảo phát triển hài hòa với lợi ích nhân dân.
Tầng tương tác: Bao gồm ứng dụng di động thân thiện, cho phép doanh nghiệp phản biện trực tuyến qua tích hợp với VNeID (hệ thống định danh điện tử quốc gia), hỗ trợ hơn 80 triệu người dùng. Người dùng có thể gửi phản ánh tức thì về chính sách thuế hoặc đất đai, với thời gian xử lý dưới 24 giờ, đồng thời nhận tư vấn từ các tổ chức thành viên như Hội LHPN Việt Nam về khởi nghiệp nữ giới số [50].
Mô hình dự báo, dựa trên phân tích hồi quy tuyến tính từ dữ liệu khảo sát 500 doanh nghiệp (sử dụng phần mềm SPSS), cho thấy nếu triển khai đầy đủ, hiệu quả sẽ tăng 25% đóng góp của KTTN vào GDP đến năm 2030, đạt mức 55-58% theo mục tiêu Nghị quyết 68 [39]. Bảng 2 dưới đây trình bày lộ trình triển khai chi tiết, lấy cảm hứng từ Đề án Chuyển đổi số MTTQVN [42].

Mô hình này không chỉ giải quyết thách thức kỹ thuật mà còn nâng tầm vai trò chính trị của MTTQVN, biến giám sát KTTN thành động lực cho đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tích hợp đại đoàn kết toàn dân tộc
Giải pháp chuyển đổi số chỉ thực sự thành công khi được đặt trong bối cảnh đại đoàn kết toàn dân tộc - sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn 2025 - 2030, MTTQVN và các tổ chức thành viên phải nhấn mạnh vai trò vận động kiều bào (hơn 5,3 triệu người Việt ở nước ngoài) và cộng đồng tôn giáo (khoảng 26 triệu tín đồ) tham gia kinh tế số, đảm bảo nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau” - một biểu hiện cụ thể của dân chủ XHCN [40]. Cụ thể, Hội Liên hiệp người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc MTTQVN sẽ tích hợp vào Cổng Mặt trận số các module hỗ trợ kiều bào đầu tư số (như quỹ khởi nghiệp ảo), dự kiến thu hút 20% dòng vốn FDI từ kiều bào vào KTTN đến năm 2030 [54]. Đồng thời, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam và Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ dẫn dắt các chương trình “Tôn giáo số hóa kinh tế”, như hỗ trợ doanh nghiệp tôn giáo tham gia thương mại điện tử, góp phần giảm bất bình đẳng ở vùng sâu, vùng xa [55].
Từ phân tích chính trị học, việc tích hợp này khắc phục mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa số và bản sắc dân tộc, bằng cách biến MTTQVN thành “cầu nối số” giữa trong nước và hải ngoại, giữa tín ngưỡng và kinh tế. Theo Nghị quyết Đại hội MTTQVN lần thứ X (2024), giải pháp này sẽ được cụ thể hóa qua 6 chương trình hành động, bao gồm vận động 10 triệu đoàn viên tham gia nền kinh tế số, đảm bảo đại đoàn kết trở thành sức mạnh vô địch cho phát triển bền vững [56]. Cuối cùng, sự thành bại của giải pháp nằm ở khả năng MTTQVN thực hiện lời kêu gọi của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Chuyển đổi số phải vì dân, do dân và gần dân”, hướng tới Việt Nam hùng cường năm 2045 [57].
Kết luận
Bài viết làm rõ vai trò then chốt của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong thúc đẩy KTTN - động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN giai đoạn 2025 - 2030. Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, MTTQVN thể hiện nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp các giai tầng xã hội từ công nhân, nông dân, trí thức đến doanh nhân tư nhân thành khối thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua phân tích thực trạng, cơ chế giám sát - phản biện xã hội và giải pháp chuyển đổi số, nghiên cứu khẳng định MTTQVN cùng các tổ chức như Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam, Hội NDVN, Hội CCB Việt Nam là nhân tố quyết định, biến KTTN thành sức mạnh chính trị - xã hội, góp phần thực hiện sứ mệnh dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Qua lăng kính biện chứng, vai trò MTTQVN nổi bật ở giám sát - phản biện xã hội, đảm bảo KTTN phát triển hài hòa, tránh bất bình đẳng giai cấp hay suy thoái đạo đức, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số nâng cao hiệu quả. Các tổ chức thành viên, với hơn 50 triệu đoàn viên, là “cánh tay nối dài” hỗ trợ khởi nghiệp số, bảo vệ lao động và tư vấn an ninh kinh tế, củng cố đại đoàn kết bằng cách tích hợp KTTN vào giá trị XHCN, trở thành động lực CNH, HĐH. Minh chứng là Hội thảo Quốc gia 13/10/2025 và Cổng Mặt trận số từ tháng 8/2025, tiếp nhận 500.000 phản ánh doanh nghiệp, nâng hiệu quả phản biện 40%, cùng mô hình “Nền tảng số giám sát KTTN” (ba tầng: dữ liệu, phân tích, tương tác) dự báo tăng 25% đóng góp KTTN vào GDP năm 2030.
Nghiên cứu chỉ ra thách thức biện chứng như khoảng cách kỹ thuật số đô thị - nông thôn, thiếu đồng bộ số hóa và rủi ro tuyên truyền sai lệch trên mạng xã hội, đòi hỏi MTTQVN đổi mới liên tục. Do đó, số hóa toàn diện là nhiệm vụ chính trị chiến lược, biến chuyển đổi số thành đột phá phát huy đại đoàn kết, hướng tới Việt Nam công nghiệp hiện đại năm 2030 và phát triển cao năm 2045. Với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” của Bác Hồ, MTTQVN là “điểm tựa vững chắc” cho KTTN, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nơi nhân dân là chủ thể phát triển, thực hiện khát vọng hùng cường trong kỷ nguyên số.
Tài liệu tham khảo, trích dẫn:
[1] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 5. Hà Nội: Nxb CTQGST.
[2], [22], [39] Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển KTTN.
[3] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2025). Báo cáo hoạt động năm 2025.
[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2025). Khảo sát vai trò MTTQVN trong KTTN.
[5] Nhân Dân (2025). “Kết nạp mới hơn 275 nghìn hội viên Hội NDVN trong năm 2024”.
[6] MTTQVN (2025). “Hội thảo quốc gia: Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[7] Tiền Phong (2024). “Năm 2025, phấn đấu cả nước có 13,5 triệu đoàn viên công đoàn”.
[8] Lao Động (2025). “Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[9] Phụ nữ Việt Nam (2025). “Hội LHPN hỗ trợ doanh nhân nữ khởi nghiệp”.
[10] Đoàn Thanh niên (2025). “Phấn đấu phát triển 22.000 đoàn viên mới trong năm 2025”.
[11] VOV (2025). “Mặt trận Tổ quốc từng bước trở thành điểm tựa để KTTN phát triển”.
[12] Quân đội Nhân dân (2025). “MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong phát triển KTTN”.
[14] Đại biểu Nhân dân (2025). “Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[15] Thời báo Tài chính Việt Nam (2025). “Phát huy vai trò của MTTQVN trong thúc đẩy phát triển KTTN”.
[16] Báo Mới (2025). “Các giải pháp phát huy vai trò của MTTQVN và các tổ chức thành viên”.
[17] Kinh tế Đô thị (2025). “Mặt trận Tổ quốc kiến tạo môi trường giàu cơ hội cho doanh nghiệp”.
[18] VNBusiness (2025). “Phát huy vai trò MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[19] Lao động Thủ đô (2025). “Phát huy vai trò của MTTQVN trong phát triển KTTN”.
[20] VietNamNet (2025). “KTTN thúc đẩy khối đại đoàn kết toàn dân”.
[21] Thư viện Pháp luật (2025). “Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 về phát triển KTTN”.
[23] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 12. Hà Nội: Nxb CTQGST.
[24] Bộ Chính trị (2013). Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 về Quy chế giám sát và phản biện xã hội.
[25] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2024). Quy chế giám sát và phản biện xã hội.
[26] Chính phủ (2025). Kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển KTTN.
[27] Bộ Tài chính (2025). Báo cáo tình hình đăng ký doanh nghiệp 10 tháng đầu năm 2025.
[28] Quốc hội (2023, 2025). Luật Đấu thầu năm 2023 (sửa đổi, bổ sung theo Luật 90/2025/QH15).
[29] Tổng LĐLĐ Việt Nam (2025). Báo cáo giám sát lao động tại DNTN.
[30] Trần Đình Thiên (2025). Vai trò MTTQVN trong KTTN.
[31] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2025). Khảo sát cơ chế giám sát MTTQVN.
[32], [41] Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
[33] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2025). Báo cáo phản biện trên mạng xã hội.
[34] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2025). Khảo sát cán bộ MTTQVN về tiếp cận dữ liệu doanh nghiệp.
[35] Thời báo Tài chính Việt Nam (2025). Phát huy vai trò MTTQVN trong KTTN.
[36] Bộ KH&CN (2025). Báo cáo thách thức chuyển đổi số doanh nghiệp.
[37] Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (2025). Khảo sát chuyển đổi số SMEs.
[38] Bộ KH&CN (2025). Báo cáo an ninh mạng doanh nghiệp 2025.
[40] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, Tập 5. Hà Nội: Nxb CTQGST.
[42] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2025). Đề án Chuyển đổi số MTTQVN giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2035.
[43] Tuyên Quang Chính quyền (2025). Triển khai nền tảng “Mặt trận số” và ứng dụng AI trong công tác MTTQ các cấp.
[44] Tạp chí Cộng sản (2025). Những nội dung trọng tâm trong chuyển đổi số của MTTQVN giai đoạn 2025 - 2030.
[45] Lao Động (2025). MTTQVN tỉnh Bắc Ninh cần triển khai Cổng Mặt trận số.
[46] Tạp chí Mỹ thuật (2025). MTTQ Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi số giai đoạn 2025 - 2030.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Chuyển đổi số trong hệ thống Mặt trận.
[48] Bộ Tài chính (2025). Báo cáo tình hình DNTN 2025.
[49] Bộ Ngoại giao (2025). Ra mắt hệ thống 3 nền tảng số phục vụ giám sát triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW.
[50] Phụ nữ Việt Nam (2025). Hội LHPN hỗ trợ doanh nhân nữ khởi nghiệp số.
[51] Tiền Phong (2025). Mặt trận Tổ quốc sẽ triển khai ‘Cổng Mặt trận số’.
[52] Báo Quân đội Nhân dân (2025). Chuyển đổi số - Khâu đột phá trong công tác Mặt trận.
[53] Tạp chí Cộng sản (2025). Đẩy mạnh chuyển đổi số trong triển khai hoạt động của MTTQVN.
[54] Nhân Dân (2025). Vận động kiều bào tham gia kinh tế số.
[55] Lao Động Thủ đô (2025). Tích hợp cộng đồng tôn giáo vào chuyển đổi số.
[56] MTTQVN (2024). Nghị quyết Đại hội MTTQVN lần thứ X.
[57] Chính phủ (2025). Nghị quyết 68-NQ/TW: ‘Bức tranh’ KTTN thêm khởi sắc.
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THÚY HÀ
Đại học Tôn Đức Thắng
LÊ HÙNG
Học viện Chính trị khu vực I

