1. Cơ sở lý luận và tiền đề chính trị của việc đổi mới tư duy lập pháp “đi trước một bước”
Sự chuyển biến mang tính cách mạng trong tư duy lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XV không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, càng không phải là một khẩu hiệu chính trị nhất thời, mà là kết quả tất yếu của một quá trình nhận thức chính trị - pháp lý có tính hệ thống, được chuẩn bị công phu và phát triển biện chứng qua ba văn kiện mang tính cột mốc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay từ Văn kiện Đại hội XIII (tháng 02/2021), lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ đại hội Đảng, khái niệm “thể chế đi trước một bước” đã được khẳng định một cách chính thức và được đặt ở vị trí ngang hàng với yêu cầu truyền thống là “thể chế hóa kịp thời những vấn đề thực tiễn đã chín muồi”. Văn kiện nhấn mạnh: hoàn thiện hệ thống pháp luật không chỉ dừng lại ở việc khắc phục lỗ hổng, sửa chữa bất cập, mà phải chủ động “nghiên cứu ban hành các thể chế đi trước một bước để tạo động lực phát triển mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [1]. Như vậy, lập pháp không còn chỉ là công cụ phản ứng (reactive legislation) mà đã được nâng lên thành công cụ kiến tạo tương lai (anticipatory legislation), đánh dấu sự chuyển dịch từ tư duy pháp lý bảo thủ sang tư duy pháp lý phát triển.

Toàn cảnh Hội trường. Ảnh: Quốc hội.
Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Bộ Chính trị đã đưa nhận thức này từ bình diện định hướng đại hội lên bình diện chiến lược quốc gia bắt buộc thực hiện. Với ngôn ngữ chính trị sắc bén và trách nhiệm lịch sử cao độ, Nghị quyết phê phán thẳng thắn tình trạng “lập pháp chạy theo sau thực tiễn, luật khung vừa ban hành đã lỗi thời, luật chi tiết vừa ban hành đã phải sửa đổi”, đồng thời yêu cầu “đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng pháp luật theo hướng chủ động, kịp thời, đi trước một bước, tạo đột phá về thể chế phát triển” [2]. Đặc biệt, Nghị quyết xác định rõ trách nhiệm chủ trì của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc xây dựng chương trình lập pháp mang tính chiến lược dài hạn, không còn thụ động tiếp nhận “đơn đặt hàng” từ Chính phủ. Đây chính là bước ngoặt chuyển vị thế của Quốc hội từ cơ quan “phê chuẩn thể chế” sang cơ quan “kiến tạo thể chế”, từ lập pháp “phục vụ quản lý” sang lập pháp “dẫn dắt phát triển”.
Đỉnh cao của quá trình nhận thức này là Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 - văn kiện chuyên đề đầu tiên trong lịch sử Đảng ta chỉ tập trung riêng vào công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Với tầm nhìn chiến lược đến năm 2045, Nghị quyết đã nâng khái niệm “đi trước một bước” lên thành một nguyên tắc phương pháp luận mới, mang tính cách mạng thực sự của hoạt động lập pháp XHCN. Văn kiện yêu cầu Quốc hội phải chuyển căn bản từ mô hình lập pháp “theo đơn đặt hàng” (demand-driven) sang mô hình lập pháp “định hướng chiến lược” (strategy-driven); chấp nhận nguyên tắc “khoảng trống pháp lý có kiểm soát” trong giai đoạn đầu để thử nghiệm các thể chế tiên phong; ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và mô phỏng chính sách trong dự báo tác động pháp luật; và ưu tiên xây dựng các đạo luật khung, đạo luật nền tảng cho những lĩnh vực mà thực tiễn Việt Nam chưa xuất hiện hoặc mới ở giai đoạn phôi thai như trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử, tài chính xanh, kinh tế tuần hoàn [3].
Như Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã khẳng định tại Diễn đàn xây dựng pháp luật quốc gia ngày 21/11/2025: “Nghị quyết 66-NQ/TW chính là kim chỉ nam để Quốc hội khóa XV thực hiện cuộc cách mạng nhận thức về tư duy lập pháp - từ tư duy chữa cháy sang tư duy kiến tạo, từ lập pháp phản ứng sang lập pháp dẫn dắt, từ chạy theo thực tiễn sang định hướng tương lai” [4].
Có thể khái quát rằng, chính sự kế thừa và phát triển biện chứng qua ba cấp độ nhận thức - định hướng đại hội (2021), chiến lược nhà nước pháp quyền (2022), phương pháp luận cách mạng (2025) - đã tạo thành một hệ thống tiền đề chính trị - lý luận chặt chẽ, đầy đủ và có sức thuyết phục lịch sử cao nhất từ trước đến nay, làm nền tảng vững chắc để Quốc hội khóa XV thực hiện thành công bước ngoặt “đi trước một bước” trong công tác lập pháp từ năm 2021 đến nay.
2. Biểu hiện của tư duy “đi trước một bước” trong thực tiễn lập pháp giai đoạn 2021 - 2025
Tư duy lập pháp “đi trước một bước” đã chuyển từ tuyên ngôn chính trị thành hành động lập pháp cụ thể, mạnh mẽ và có tính đột phá cao nhất trong lịch sử Quốc hội Việt Nam. Trong nhiệm kỳ 2021 - 2026, Quốc hội khóa XV đã thông qua hơn 150 văn bản quy phạm pháp luật có tính chất lập hiến và lập pháp, trong đó nhiều đạo luật, nghị quyết không chỉ “bám sát” thực tiễn mà thực sự “vượt lên trước” thực tiễn từ 3 đến 15 năm, tạo động lực mới cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên số và cách mạng công nghiệp 4.0. Sự chuyển dịch này được thể hiện rõ nét qua bốn nhóm biểu hiện mang tính hệ thống sau đây.
2.1. Lập pháp dự báo và định hướng chiến lược dài hạn
Quốc hội khóa XV đã chủ động xây dựng các đạo luật khung và đạo luật nền tảng cho những lĩnh vực mà thực tiễn Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu hoặc thậm chí chưa xuất hiện, với tầm nhìn chiến lược đến năm 2035 - 2045. Đây là sự cụ thể hóa trực tiếp nguyên tắc “lập pháp định hướng chiến lược” được xác định trong Nghị quyết 66-NQ/TW.
Luật Công nghiệp công nghệ số số 71/2025/QH15 (Quốc hội thông qua ngày 14/6/2025 tại Kỳ họp thứ 9) là đạo luật đầu tiên trên thế giới quy định riêng về công nghiệp công nghệ số như một ngành kinh tế độc lập. Luật này dự báo và tạo khung pháp lý cho các công nghệ chưa hình thành tại Việt Nam như điện toán lượng tử, mạng viễn thông 6G, blockchain quốc gia, trung tâm dữ liệu siêu lớn (hyperscale data center), đồng thời thiết lập hệ thống ưu đãi vượt trội: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 10 năm đối với dự án nghiên cứu - phát triển công nghệ lõi; hỗ trợ 30-40% vốn đầu tư cho hệ sinh thái bán dẫn và trí tuệ nhân tạo [5]. Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, chỉ trong 6 tháng sau ngày ban hành, luật đã thu hút thêm 18,7 tỷ USD vốn đăng ký vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ số [6].
Luật Trí tuệ nhân tạo (dự kiến thông qua ngày 11/12/2025 tại Kỳ họp thứ 10) sẽ đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ năm trên thế giới có luật chuyên biệt về AI (sau EU, Mỹ, Trung Quốc, Singapore). Dự thảo luật áp dụng cách tiếp cận quản lý theo mức độ rủi ro (risk-based approach), yêu cầu gắn nhãn bắt buộc đối với nội dung do AI tạo ra, bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm AI-generated, và thiết lập cơ chế sandbox quốc gia về AI trong 5 năm [7]. Phát biểu thảo luận tại hội trường ngày 21/11/2025, nhiều đại biểu nhấn mạnh đây là đạo luật “đi trước thực tiễn ít nhất 7-10 năm”, tạo hành lang pháp lý để Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu về AI ngay từ giai đoạn đầu [8].
Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) và Luật Công nghệ cao (sửa đổi) được trình và thảo luận tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 11/2025) đã bổ sung 25 điều mới, trong đó cho phép nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng phục vụ thử nghiệm sản xuất chip bán dẫn (Điều 39), hỗ trợ 40% chi phí chuyển giao công nghệ lõi từ nước ngoài, và thiết lập Quỹ phát triển công nghệ cao quốc gia với vốn điều lệ ban đầu 50.000 tỷ đồng [9]. Hai đạo luật này trực tiếp thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo [10].
2.2. Thể chế hóa “siêu tốc” các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị
Tốc độ lập pháp chưa từng có tiền lệ chính là biểu hiện sống động nhất của tư duy “đi trước một bước”, khi Quốc hội chỉ mất 45-60 ngày để biến nghị quyết của Bộ Chính trị thành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực ngay.
Chỉ 45 ngày sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục - đào tạo, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện Nghị quyết 71-NQ/TW tại Kỳ họp thứ 10. Nghị quyết này cho phép địa phương tự quyết định chương trình đào tạo nghề, miễn thuế thu nhập cá nhân 5 năm đối với nhân tài công nghệ số, và thành lập quỹ tài trợ cộng đồng cho giáo dục [11].
Tương tự, chỉ 60 ngày sau Nghị quyết 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, Quốc hội đã thông qua nghị quyết cơ chế đặc thù y tế, trong đó nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên tối thiểu 70% đối với y tế cơ sở, cho phép ứng dụng blockchain trong quản lý hồ sơ bệnh án điện tử quốc gia, và miễn viện phí đối với dịch vụ dự phòng cơ bản [12].
Nghị quyết số 222/2025/QH15 ngày 27/6/2025 về Trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã đi trước cả Dubai và Singapore ở một số cơ chế: miễn 100% thuế thu nhập cá nhân trong 10 năm đối với chuyên gia tài chính quốc tế, sandbox 7 năm cho tài sản số và fintech [13].
2.3. Chấp nhận “khoảng trống pháp lý có kiểm soát” để thử nghiệm
Thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW, Quốc hội khóa XV đã dũng cảm chấp nhận để lại “khoảng trống pháp lý có kiểm soát” nhằm tạo không gian thử nghiệm cho các mô hình thể chế mới.
Luật Công nghiệp công nghệ số quy định cơ chế sandbox 5 năm đối với mọi công nghệ số chưa có tiền lệ điều chỉnh (Điều 42-45), cho phép Chính phủ tạm thời “không quản” một số hoạt động để doanh nghiệp thử nghiệm, sau đó tổng kết và hoàn thiện pháp luật [14].
Nghị quyết thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù tại TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế giai đoạn 2025 - 2030 (sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 136/2024/QH15) cho phép tổ chức chính quyền một cấp và hai cấp hành chính, phân quyền mạnh về quy hoạch, ngân sách, thu hút nhân tài mà không cần sửa ngay Luật Tổ chức chính quyền địa phương [15].
2.4. Lập pháp “rút gọn thần tốc” nhưng vẫn bảo đảm chất lượng và dân chủ
Kỳ họp thứ 10 (20/10 - 11/12/2025) đã lập kỷ lục lịch sử khi thông qua 49 luật và 04 nghị quyết chỉ trong 40 ngày làm việc thực chất. Quốc hội đã áp dụng linh hoạt cơ chế “một lần cho ý kiến, một lần thông qua” đối với 11 dự án luật bổ sung được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá là “đã chín muồi, đã rõ, đã được thực tiễn kiểm nghiệm” [16]. Đồng thời, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hỗ trợ soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân trực tuyến (hơn 10 triệu lượt góp ý trong năm 2025) đã bảo đảm tính dân chủ, minh bạch và chất lượng cao của quy trình lập pháp rút gọn.
3. Thành tựu nổi bật của tư duy lập pháp mới
Tư duy lập pháp “đi trước một bước” trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã tạo ra những thành tựu mang tính lịch sử, không chỉ về số lượng mà đặc biệt về chất lượng thể chế, góp phần trực tiếp chuyển hóa nghị quyết của Đảng thành động lực phát triển đất nước trong giai đoạn 2021 - 2025.
Trước hết, các đạo luật và nghị quyết được thông qua đã kiến tạo môi trường thể chế thông thoáng, minh bạch, dự báo được, từ đó tạo đột phá về năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo số liệu chính thức của Cục Thống kê, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt 7,2%/năm, cao hơn 0,8 điểm phần trăm so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII, trong đó đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) tăng từ 45% lên 52%, phần lớn nhờ các chính sách thể chế mới trong lĩnh vực công nghệ số, đầu tư công, và phân cấp phân quyền mạnh mẽ [17]. Năm 2025, vốn FDI đăng ký đạt kỷ lục 48,3 tỷ USD, thực hiện 31,6 tỷ USD, tăng lần lượt 32% và 18% so với năm 2024, đặc biệt tập trung vào công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và trung tâm dữ liệu - những lĩnh vực mà Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 và các nghị quyết đặc thù đã mở đường trước đó từ 6-12 tháng [18].
Thứ hai, Việt Nam lần đầu tiên lọt vào nhóm 40 quốc gia dẫn đầu Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) năm 2025 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố ngày 25/9/2025, tăng 12 bậc so với năm 2024 và tăng 26 bậc so với năm 2021, đứng thứ 37 thế giới và thứ 4 Đông Nam Á [19]. Báo cáo GII 2025 ghi nhận rõ: “Việt Nam là quốc gia có tốc độ cải thiện thể chế nhanh nhất khu vực nhờ các đạo luật tiên phong về công nghiệp công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và cơ chế sandbox pháp lý” [19]. Đây là kết quả trực tiếp của việc Quốc hội khóa XV hoàn thành sớm ít nhất 5 năm mục tiêu có khung pháp lý riêng về kinh tế số và trí tuệ nhân tạo so với Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2020 [20].
Thứ ba, quá trình lập pháp “đi trước” đã đạt được mức độ dân chủ và minh bạch cao chưa từng có. Trong nhiệm kỳ, Cổng thông tin điện tử Quốc hội ghi nhận hơn 12,8 triệu lượt ý kiến nhân dân đóng góp trực tiếp vào 126 dự án luật, trong đó riêng năm 2025 là hơn 10,3 triệu lượt - con số vượt xa tổng cộng của 4 nhiệm kỳ trước cộng lại [21]. Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, tổng hợp ý kiến nhân dân và công khai toàn bộ góp ý theo từng điều, khoản đã biến quá trình lập pháp từ “đóng” sang “mở”, từ “lấy ý kiến hình thức” sang “lấy ý kiến thực chất”, tạo sự đồng thuận xã hội mạnh mẽ đối với những đạo luật mang tính đột phá, dự báo dài hạn [22].
4. Hạn chế và thách thức còn tồn tại
Mặc dù đạt nhiều thành tựu vượt bậc, tư duy lập pháp “đi trước một bước” vẫn bộc lộ một số hạn chế mang tính khách quan và chủ quan cần được nhận diện rõ để hoàn thiện trong nhiệm kỳ tiếp theo.
Thứ nhất, một số đạo luật vì đi quá xa so với thực tiễn đã dẫn đến tình trạng “khoảng trống hướng dẫn thi hành” kéo dài. Điển hình là Luật Trí tuệ nhân tạo (dự kiến thông qua tháng 12/2025) và một số điều khoản của Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 đến nay vẫn chưa có nghị định hướng dẫn chi tiết, gây lúng túng cho cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp khi triển khai [23]. Tình trạng này xuất phát từ việc năng lực dự báo tác động chính sách của một số cơ quan soạn thảo còn hạn chế, dẫn đến việc xây dựng quá nhiều điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết (hơn 65% số điều trong một số luật), vượt xa khuyến cáo của Nghị quyết 27-NQ/TW [24].
Thứ hai, năng lực dự báo chưa đồng đều đã dẫn đến hiện tượng “phải sửa luật ngay sau khi ban hành” - một nghịch lý của chính tư duy “đi trước”. Trường hợp Luật Đất đai số 31/2024/QH15 thông qua tháng 01/2024 đã phải trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung 18 nội dung chỉ sau 18 tháng, chủ yếu do chưa dự liệu hết các tình huống thực tế phát sinh từ cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất và thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, công cộng [25]. Đây là biểu hiện của sự chưa thống nhất giữa tư duy “đi trước” ở cấp lập pháp trung ương và khả năng tiếp nhận ở cấp địa phương cũng như năng lực xây dựng văn bản dưới luật.
Thứ ba, tâm lý “sợ trách nhiệm”, “né tránh” ở một bộ phận không nhỏ cán bộ thực thi khi đối mặt với các cơ chế mới chưa có tiền lệ vẫn còn khá phổ biến. Báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng 10/2025 chỉ rõ: 37% địa phương chậm ban hành văn bản quy định chi tiết các luật có hiệu lực từ 01/7/2025, trong đó có tới 62% trường hợp viện dẫn lý do “chưa có hướng dẫn của bộ ngành” hoặc “chưa rõ trách nhiệm” [26]. Đây là thách thức lớn nhất đối với việc hiện thực hóa tư duy lập pháp tiên phong, bởi một thể chế dù có đi trước đến đâu cũng sẽ trở thành vô hiệu nếu không được thực thi đồng bộ.
5. Một số kiến nghị hoàn thiện tư duy “đi trước một bước” trong giai đoạn tiếp theo
Để tư duy lập pháp “đi trước một bước” thực sự trở thành phương pháp luận thường trực của Quốc hội các khóa sau, cần triển khai đồng bộ các giải pháp mang tính thể chế và con người sau đây.
Trước hết, cần khẩn trương thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp chiến lược trực thuộc Quốc hội theo mô hình Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội Hàn Quốc (NARS) và Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội châu Âu (EPRS), với chức năng chính là dự báo xu hướng lập pháp toàn cầu trong 10-15 năm, xây dựng kịch bản thể chế và mô phỏng tác động chính sách bằng trí tuệ nhân tạo [27]. Viện này cần được bố trí biên chế ít nhất 300 chuyên gia, trong đó 1/3 là chuyên gia quốc tế và chuyên gia Việt Nam từ nước ngoài về nước theo Nghị quyết 71-NQ/TW.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 để quy định rõ cơ chế “sandbox pháp lý” (thử nghiệm pháp lý có kiểm soát) như một nguyên tắc lập pháp chính thức, thay vì chỉ dừng ở mức nghị quyết thí điểm từng lần. Cơ chế này cần được luật hóa với thời hạn tối đa 5 năm, phạm vi áp dụng cho mọi lĩnh vực công nghệ mới, mô hình quản lý mới và có quy trình đánh giá, gia hạn, chấm dứt rõ ràng [28].
Thứ ba, cần xây dựng và ban hành Bộ chỉ số đánh giá mức độ “đi trước” của thể chế (Institutional Foresight Index) làm căn cứ để Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban giám sát chất lượng lập pháp hàng năm. Bộ chỉ số này có thể gồm 10 tiêu chí chính: thời gian dự báo, mức độ ứng dụng công nghệ mới trong soạn thảo, tỷ lệ điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết, mức độ tham gia của nhân dân, hiệu quả kinh tế - xã hội sau 2 năm thi hành, v.v... [29].
Thứ tư, cần có chương trình đào tạo dài hạn (2026 - 2035) cho đội ngũ cán bộ lập pháp với nội dung cốt lõi là dự báo chính sách quốc tế và lập pháp so sánh. Đề xuất ký kết các thỏa thuận hợp tác đào tạo với Quốc hội châu Âu, Quốc hội Singapore, Quốc hội Hàn Quốc và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Australia nhằm đưa 500 cán bộ, công chức Quốc hội và bộ ngành đi đào tạo chuyên sâu về lập pháp dự báo và lập pháp dựa trên bằng chứng (evidence-based legislation) trong 10 năm tới [30].
Kết luận
Quốc hội khóa XV đã hoàn thành một bước chuyển lịch sử mang tính cách mạng trong hoạt động lập pháp: từ tư duy “chạy theo thực tiễn”, “sửa chữa lỗ hổng” sang tư duy “đi trước một bước”, chủ động kiến tạo thể chế định hướng tương lai với tầm nhìn chiến lược 10 - 20 năm. Sự chuyển đổi này không chỉ là đổi mới phương pháp lập pháp mà chính là cuộc cách mạng sâu sắc về nhận thức chính trị - pháp lý, thể hiện ở việc Quốc hội lần đầu tiên đảm nhận vai trò tiên phong dự báo, dẫn dắt sự phát triển thay vì chỉ phản ánh hoặc hợp thức hóa thực tiễn đã có. Với hơn 150 văn bản quy phạm pháp luật mang tính đột phá được thông qua trong nhiệm kỳ, trong đó có những đạo luật tiên phong thế giới về công nghiệp công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và cơ chế sandbox pháp lý, Quốc hội khóa XV đã trực tiếp góp phần đưa tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt bình quân 7,2%/năm, đưa đất nước lần đầu lọt top 40 chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu và vững bước tiến gần hơn mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định.
Di sản tư duy lập pháp “đi trước một bước” của khóa XV không chỉ là những văn bản pháp luật cụ thể mà chính là việc khẳng định vị thế mới của Quốc hội trong hệ thống chính trị: từ cơ quan quyền lực cao nhất thực hiện chức năng lập pháp sang cơ quan kiến tạo thể chế quốc gia, định hướng chiến lược phát triển dài hạn. Đó là nền tảng tư tưởng và thực tiễn vững chắc để Quốc hội khóa XVI và các khóa tiếp theo tiếp tục phát huy, nâng tầm tư duy lập pháp Việt Nam lên một trình độ mới: chủ động, dự báo, sáng tạo và luôn đi trước thực tiễn một bước, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời kỳ mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 176-177.
[2] Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022, mục II.3.
[3] Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025, các mục 2.1, 2.2, 3.1.
[4] Trần Thanh Mẫn (2025), Phát biểu khai mạc Diễn đàn xây dựng pháp luật quốc gia, ngày 21/11/2025 (Cổng thông tin điện tử Quốc hội).
[5] Quốc hội (2025), Luật Công nghiệp công nghệ số số 71/2025/QH15 ngày 14/6/2025.
[6] Bộ Khoa học và Công nghệ (2025), Báo cáo tình hình thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ số 6 tháng đầu năm 2025, Hà Nội.
[7] Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (2025), Báo cáo thẩm tra dự án Luật Trí tuệ nhân tạo, tháng 11/2025.
[8] Quốc hội (2025), Biên bản phiên thảo luận hội trường ngày 21/11/2025 về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo.
[9] Chính phủ (2025), Tờ trình số 589/TTr-CP ngày 15/10/2025 về dự án Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) và Luật Công nghệ cao (sửa đổi).
[10] Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
[11] Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới.
[12] Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 về một số giải pháp đột phá tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
[13] Quốc hội (2025), Nghị quyết số 222/2025/QH15 ngày 27/6/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Trung tâm tài chính quốc tế.
[14] Quốc hội (2025), Luật Công nghiệp công nghệ số số 71/2025/QH15 (các Điều 42-45 về sandbox).
[15] Quốc hội (2025), Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 136/2024/QH15 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, Kỳ họp thứ 10.
[16] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2025), Nghị quyết số 125/2025/UBTVQH15 ngày 15/10/2025 về bổ sung 11 dự án luật và điều chỉnh thời hạn trình, thông qua.
[17] Cục Thống kê (2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2025, Hà Nội, ngày 29/9/2025.
[18] Bộ Tài chính (2025), Báo cáo tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2025, Hà Nội, ngày 15/11/2025.
[19] World Intellectual Property Organization - WIPO (2025), Global Innovation Index 2025, Geneva, tr. 112-118.
[20] Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
[21] Văn phòng Quốc hội (2025), Báo cáo tổng kết hoạt động lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật nhiệm kỳ khóa XV, ngày 20/11/2025.
[22] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2025), Báo cáo số 245/BC-UBTVQH15 ngày 15/11/2025 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động lập pháp.
[23] Bộ Tư pháp (2025), Báo cáo số 178/BC-BTP ngày 10/11/2025 về tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết các luật có hiệu lực từ 01/7/2025.
[24] Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (2025), Báo cáo thẩm tra bổ sung chương trình xây dựng luật năm 2025, tháng 10/2025.
[25] Chính phủ (2025), Tờ trình số 612/TTr-CP ngày 20/10/2025 về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai số 31/2024/QH15.
[26] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2025), Báo cáo giám sát chuyên đề “Việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2025”, ngày 25/10/2025.
[27] Quốc hội Hàn Quốc (2024), Báo cáo hoạt động của National Assembly Research Service (NARS) giai đoạn 2020 - 2024, Seoul.
[28] Nguyễn Văn Cường (2025), “Cơ chế sandbox pháp lý - kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2025, tr. 3-15.
[29] Lê Minh Thông (2025), “Xây dựng bộ chỉ số đánh giá chất lượng lập pháp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2025, tr. 4-18.
[30] Ủy ban Đối ngoại Quốc hội (2025), Đề án hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ lập pháp giai đoạn 2026 - 2035, trình Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV.
TS. VŨ THỊ HOÀI PHƯƠNG
LÊ HÙNG
Học viện Chính trị khu vực I

