/ Luật sư - Bạn đọc
/ Quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em dùng trên xe ô tô: Góc nhìn từ hoạt động của xe taxi và xe buýt

Quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em dùng trên xe ô tô: Góc nhìn từ hoạt động của xe taxi và xe buýt

27/11/2025 06:56 |

(LSVN) – Quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em dùng trên xe ô tô sẽ có hiệu lực từ 01/01/2026, nhưng hiện vẫn thiếu hướng dẫn thế nào là “thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”, gây khó khăn khi áp dụng. Đối với xe taxi (kể cả xe công nghệ) và xe buýt – vốn có đặc thù đón khách ngẫu nhiên – việc bố trí và kiểm soát sử dụng thiết bị càng trở nên thách thức. Bài viết phân tích quy định này, nhận diện các vướng mắc trong thực tiễn vận tải bằng xe taxi và xe buýt, đồng thời tham khảo kinh nghiệm Singapore để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

1. Quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em dùng trên xe ô tô

Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 lần đầu tiên đặt ra nghĩa vụ bắt buộc đối với người lái xe ô tô: phải sử dụng, hướng dẫn sử dụng thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em. Nghĩa vụ này bắt đầu áp dụng từ ngày 01/01/2026 [1].

Theo đó, khoản 3 Điều 10 của Luật quy định: “Khi chở trẻ em dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô không được cho trẻ em ngồi cùng hàng ghế với người lái xe, trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế; người lái xe phải sử dụng, hướng dẫn sử dụng thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em.”

Về xử phạt, điểm m khoản 3 Điều 6 Nghị định 168/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 (có hiệu lực từ 01/01/2026) [2] quy định phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm: Chở trẻ em dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô ngồi cùng hàng ghế với người lái xe (trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế) hoặc không sử dụng thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em theo quy định.

Như vậy, thời điểm quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em chính thức được áp dụng đã rất gần. Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí thế nào là “thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”, mặc dù cụm từ này được sử dụng như cơ sở xác định hành vi vi phạm.

Cụ thể, cho đến nay, khoản 13 Điều 2 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 [3] và Tiết 1.3.1 tiểu mục 1.3 Mục 1 QCVN 123:2024/BGTVT [4] mới chỉ dừng lại ở việc giải thích thuật ngữ “thiết bị an toàn cho trẻ em”.

Khoảng trống pháp lý này có thể gây khó khăn cho cả cơ quan thực thi khi xử phạt, lẫn người lái xe khi tuân thủ quy định.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Những khó khăn đối với hoạt động kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi và xe buýt

Mặc dù mục tiêu bảo đảm an toàn giao thông là không thể phủ nhận, nhưng khi áp dụng vào hoạt động vận tải hành khách bằng xe taxi và xe buýt – các loại hình có đặc thù vận hành riêng – quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em có thể phát sinh nhiều vướng mắc.

Một là, xe taxi và xe buýt hoạt động theo mô hình đón khách ngẫu nhiên, tài xế không thể biết trước hoặc biết chính xác hành khách có trẻ em đi cùng hay không, trẻ em bao nhiêu tuổi, cao bao nhiêu.

Hai là, phần lớn xe taxi và xe buýt hoạt động trong nội đô với tốc độ thấp (đặc biệt trong bối cảnh ùn tắc hiện nay), nên lợi ích an toàn gia tăng từ việc sử dụng thiết bị có thể không tương xứng với những phiền toái và chi phí phát sinh trên thực tế, như việc hành khách bị từ chối vận chuyển chỉ vì xe không có thiết bị; kèm theo đó, giá vận chuyển cũng cao hơn do phải chịu phân bổ chi phí đầu tư trang bị và chi phí tuân thủ.

Ba là, quy định xử phạt đặt toàn bộ trách nhiệm lên người lái xe, trong khi họ lại có nghĩa vụ “không được từ chối vận tải hành khách trái quy định” theo khoản 3 Điều 59 Luật Đường bộ năm 2024 [5]. Trên thực tế, dù lái xe đã nhắc nhở và hướng dẫn sử dụng thiết bị trước khi khởi hành, hành khách vẫn có thể tự ý tháo thiết bị trong quá trình di chuyển, nhưng người lái xe không thể kiểm soát vì phải tập trung điều khiển phương tiện.

Các khó khăn nêu trên cho thấy độ vênh đáng kể giữa quy định pháp luật và điều kiện vận hành thực tế của hoạt động vận tải hành khách bằng xe taxi và xe buýt.

Ví dụ thực tiễn: Tháng 01/2026, một người mẹ cùng hai con nhỏ bắt taxi di chuyển trong nội đô. Cháu lớn 8 tuổi, nặng 30 kg; cháu còn lại 1 tuổi, nặng 9 kg.

Như đã đề cập, do pháp luật hiện chưa làm rõ tiêu chí “thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”, nên nếu tiêu chí này được xây dựng dựa trên các nhóm thiết bị trong QCVN 123:2024/BGTVT, thì trong tình huống này, xe taxi sẽ phải trang bị ít nhất hai loại thiết bị an toàn:

- (i) Ghế trẻ em CRS – Nhóm III dành cho trẻ em có cân nặng từ 22 kg đến 36 kg;

- (ii) Ghế trẻ em CRS – Nhóm 0 dành cho trẻ em có cân nặng dưới 10 kg [6] hoặc ghế trẻ em nâng cao ECRS (ISOFIX) – Nhóm 0, Nhóm 0+. [7]

Với yêu cầu như vậy, khả năng cao người mẹ và hai con nhỏ sẽ phải gọi nhiều lượt taxi mới tìm được xe có thiết bị phù hợp, và trong nhiều trường hợp có thể phải chấp nhận trả thêm một khoản phụ phí đáng kể. Đặc biệt, trong giờ cao điểm hoặc khi di chuyển quãng đường ngắn, nguy cơ bị từ chối vận chuyển là rất cao với lý do đơn giản là phương tiện không có thiết bị phù hợp để chở trẻ em.

3. Kinh nghiệm quốc tế: Quy định của Singapore và gợi mở cho Việt Nam

Theo khoản 1 Điều 8 Quy tắc Giao thông đường bộ Singapore [8]: Phương tiện chỉ được phép chở hành khách có chiều cao dưới 1,35 mét nếu người đó được bảo đảm an toàn đúng cách thông qua: (i) thiết bị an toàn cho trẻ em được phê duyệt (approved child restraint) phù hợp với chiều cao và cân nặng; hoặc (ii) dây đai an toàn giữ cơ thể (body-restraining seat belt) khi ngồi trên đệm ghế nâng chiều cao (booster seat cushion) hoặc ghế có dây an toàn điều chỉnh (adjustable seat belt) đã được Cơ quan Đăng ký phê duyệt.

Tuy nhiên, nghĩa vụ này được miễn trừ đối với một số phương tiện theo khoản 2 Điều 8 Quy tắc, cụ thể: quy định trên không áp dụng đối với:

- (i) Taxi, nếu người có chiều cao dưới 1,35 mét ở hàng ghế sau của taxi;

- (ii) Xe buýt, ngoại trừ xe buýt nhỏ chuyên chở học sinh đến hoặc rời trường học.

Ngoài ra, Điều 10 Quy tắc áp dụng chế tài hình sự đối với hành vi vi phạm: bất kỳ người nào vi phạm đều có thể bị phạt tiền đến 1.000 đô-la Singapore hoặc phạt tù đến 3 tháng; tái phạm có thể bị phạt đến 2.000 đô-la Singapore hoặc phạt tù đến 6 tháng.

Như vậy, có thể khái quát một số đặc điểm đáng chú ý trong thiết kế quy định của Singapore:

- Việc phân hóa nghĩa vụ thông qua miễn trừ đối với xe taxi và xe buýt (trừ xe buýt nhỏ chuyên chở học sinh đến hoặc rời trường học) phản ánh đặc thù đón khách ngẫu nhiên của các phương tiện này, khiến việc luôn bố trí sẵn thiết bị an toàn trở nên khó khả thi trong điều kiện khai thác thực tế.

- Đối tượng phải sử dụng thiết bị an toàn là bất kỳ người nào có chiều cao dưới 1,35 mét, chứ không chỉ trẻ em. Đây là điểm sửa đổi quan trọng từ năm 2012 theo Quy tắc hiện hành. Trước đó, theo Quy tắc năm 1992 (khoản 1 và 2 Điều 11) [9], nghĩa vụ này chỉ áp dụng đối với trẻ dưới 8 tuổi – tức dựa trên tiêu chí độ tuổi, không phải chiều cao. Cách tiếp cận mới phù hợp với nguyên lý kỹ thuật của thiết bị an toàn, vốn được thiết kế dựa trên tiêu chí chiều cao – trọng lượng thay vì độ tuổi.

- Cách thiết kế chế tài theo hướng “áp dụng cho bất kỳ người nào vi phạm” cho thấy trách nhiệm tuân thủ không chỉ đặt lên người lái xe mà còn có thể thuộc về hành khách hoặc người phục vụ trên phương tiện, tùy vào tình huống cụ thể.

Đây là kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình hoàn thiện quy định pháp luật, nhằm bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu bảo đảm an toàn giao thông và tính khả thi trong thực tiễn vận chuyển hành khách.

4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Từ khoảng trống pháp lý hiện nay, những khó khăn trong thực tiễn áp dụng đối với xe taxi và xe buýt, cùng với kinh nghiệm từ Singapore, tác giả kiến nghị hoàn thiện pháp luật theo các hướng sau:

Thứ nhất, quy định chung với các loại ô tô:

- Về đối tượng áp dụng: Cần xem xét áp dụng quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em đối với mọi hành khách có chiều cao dưới 1,35 mét, thay vì chỉ giới hạn ở nhóm “trẻ em”. Cách tiếp cận dựa trên chiều cao phù hợp hơn với nguyên lý kỹ thuật của thiết bị an toàn, vốn được thiết kế dựa trên tiêu chí chiều cao – trọng lượng chứ không theo độ tuổi. Ngoài ra, tiêu chí chiều cao cũng giúp quy định khả thi hơn, vì hành khách, người lái xe và lực lượng chức năng không phải xác định hoặc chứng minh thêm độ tuổi của người được chở.

- Hướng dẫn tiêu chí xác định “thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”: Việc làm rõ tiêu chí này sẽ giúp bảo đảm tính minh bạch và tạo thuận lợi cho cả cơ quan thực thi và người có nghĩa vụ trong quá trình thực hiện quy định.

- Miễn trừ xử phạt đối với người lái xe trong trường hợp đã làm tròn nghĩa vụ: Cần quy định miễn trừ trách nhiệm cho người lái xe khi họ đã nhắc nhở và kiểm tra việc sử dụng thiết bị an toàn trước khi khởi hành, nhưng hành khách tự ý tháo thiết bị trong quá trình di chuyển. Điều này tránh việc quy trách nhiệm toàn bộ cho người lái xe trong khi họ phải tập trung điều khiển phương tiện và không thể kiểm soát hành vi của hành khách.

Thứ hai, đối với riêng xe taxi, xe buýt:

- “Miễn trừ có điều kiện”: Quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em không áp dụng đối với xe taxi và xe buýt, trừ trường hợp phương tiện lưu thông trên đường cao tốc. Việc “miễn trừ có điều kiện” này giúp bảo đảm mức an toàn tối thiểu trong các tình huống rủi ro cao, đồng thời vẫn phù hợp với đặc thù vận hành riêng của các loại hình vận tải này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024.

2. Luật Đường bộ năm 2024.

3. Nghị định 168/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; trừ điểm, phục hồi điểm giấy phép lái xe;

4. QCVN 123:2024/BGTVT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Thiết bị an toàn cho trẻ em dùng trên xe ô tô, ban hành kèm theo Thông tư số 48/2024/TT-BGTVT ngày 15/11/2024 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

5. Singapore. Road Traffic (Motor Vehicles, Wearing of Seat Belts) Rules 2011 (S 688/2011).

6. Singapore. Road Traffic (Motor Vehicles, Wearing of Seat Belts) Rules. R 34, Revised Edition 1992. 

[1] Khoản 2 Điều 88 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 quy định: “Khoản 3 Điều 10 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.”

[2] Khoản 2 Điều 53 Nghị định 168/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 nêu: Quy định tại điểm m khoản 3 Điều 6 của Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.

[3] Khoản 13 Điều 2 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 quy định: “Thiết bị an toàn cho trẻ em là thiết bị có đủ khả năng bảo đảm an toàn cho trẻ em ở tư thế ngồi hoặc nằm trên xe ô tô, được thiết kế để giảm nguy cơ chấn thương cho người dùng trong trường hợp xảy ra va chạm hoặc xe ô tô giảm tốc độ đột ngột, bằng cách hạn chế sự di chuyển của cơ thể trẻ em.”

[4] Tiết 1.3.1 tiểu mục 1.3 Mục 1 QCVN 123:2024/BGTVT: “Thiết bị an toàn cho trẻ em là thiết bị có khả năng bảo đảm an toàn cho trẻ em ở tư thế ngồi hoặc nằm trên xe ô tô, được thiết kế để giảm nguy cơ chấn thương cho người dùng trong trường hợp xảy ra va chạm hoặc xe ô tô giảm tốc độ đột ngột bằng cách hạn chế sự di chuyển của cơ thể trẻ em. Thiết bị an toàn cho trẻ em bao gồm Hệ thống ghế trẻ em CRS (Child Restraint System) và Hệ thống ghế trẻ em nâng cao ECRS (Enhanced Child Restraint System)”

[5] Khoản 3 Điều 59 Luật Đường bộ năm 2024 quy định: “Không được từ chối vận tải hành khách, trừ lý do quy định tại khoản 1 Điều này; không được gây khó khăn đối với hành khách là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ mang thai; không được chuyển hành khách sang phương tiện khác khi chưa được sự đồng ý của hành khách, trừ trường hợp bất khả kháng.”

[6] Tiết 1.3.4 tiểu mục 1.3 Mục 1 QCVN 123:2024/BGTVT:

“1.3.4. Hệ thống ghế trẻ em CRS được chia thành 5 nhóm theo cân nặng của trẻ em:

1.3.4.1. Nhóm 0 dành cho trẻ em có cân nặng dưới 10 kg;

1.3.4.2. Nhóm 0+ dành cho trẻ em có cân nặng dưới 13 kg;

1.3.4.3. Nhóm I dành cho trẻ em có cân nặng từ 9 kg đến 18 kg;

1.3.4.4. Nhóm II dành cho trẻ em có cân nặng từ 15 kg đến 25 kg;

1.3.4.5. Nhóm III dành cho trẻ em có cân nặng từ 22 kg đến 36 kg;”

[7] Tiết 1.3.8 tiểu mục 1.3 Mục 1 QCVN 123:2024/BGTVT:

Hệ thống ghế trẻ em ISOFIX được phân theo ba nhóm cân nặng:

- Nhóm 0: đến 10 kg;

- Nhóm 0+: đến 13 kg;

- Nhóm I: từ 9 đến 18 kg;

[8] Singapore. Road Traffic (Motor Vehicles, Wearing of Seat Belts) Rules 2011 (S 688/2011). Truy cập lúc 10h ngày 24/11/2025 tại: https://sso.agc.gov.sg/SL/RTA1961-S688-2011?utm

“8. Passenger below 1.35 metres in height to be properly secured by approved child restraint, etc.

(1) Where a person below 1.35 metres in height is a passenger of a motor vehicle to which these Rules apply, no person shall use the motor vehicle unless the passenger is properly secured by -

(a) an approved child restraint appropriate for a person of that height and weight; or

(b) a body-restraining seat belt in the manner set out in rule 4(2) when seated on a booster seat cushion or when using a seat with an adjustable seat belt approved by the Registrar.”

[9] Singapore. Road Traffic (Motor Vehicles, Wearing of Seat Belts) Rules. R 34, Revised Edition 1992. Truy cập lúc 11h ngày 24/11/2025 tại: https://sso.agc.gov.sg/SL-Rev/RTA1961-R34/Published/19921001

“11. Child rear seat passenger to be secured by approved child restraint

(1)  Where a seat belt is available for the use of a child below 8 years of age who is the rear seat passenger of a motor vehicle to which these Rules apply, no person shall use the motor vehicle unless the child is properly secured by an approved child restraint appropriate for a child of that height and weight.

(2)  For the purpose of paragraph (1), a child shall be deemed to be properly secured if the child is able, by using a booster seat cushion, to wear a seat belt in the manner prescribed by rule 4(2).”

Thạc sĩ, Luật sư ĐẶNG KIM CHINH

Đoàn Luật sư TP. HCM