LSVNO - Vừa qua, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp đã tổ chức “Hội nghị đối thoại về các vướng mắc Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư”. Tham luận tại Hội nghị, nhiều chuyên gia bày tỏ lo ngại vì luật ít đi vào cuộc sống. Một trong nhiều nguyên nhân của tình hình là do các văn bản pháp luật còn dài dòng, nhiều quy định có tính chủ quan, áp đặt, xa rời đời sống xã hội, nặng về quy định có tính định tính và ít quy định có tính định lượng. Phải chăng, công cuộc cải cách tư pháp chưa đặt trọng tâm vào việc nâng cao chất lượng và hoàn thiện các văn bản pháp luật để cho các chủ thể liên quan dễ đọc, dễ hiểu, dễ áp dụng, khiến họ từ chỗ ngại đọc đến thiếu ý thức tôn trọng, tuân thủ?
Nhiều bước tiến trong cải cách tư pháp
Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, từ khâu cải cách - tinh giản bộ máy tổ chức hành pháp, tư pháp đến những đổi mới trong thực thi trên nhiều lĩnh vực hành chính, kinh tế, dân sự, tố tụng,… Nhiều sự kiện được dư luận quan tâm, phản ánh phần nào những thành tự này, như: Bộ Công an bỏ 6 tổng cục; cuộc sáp nhập văn phòng đại biểu Quốc hội, ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh diễn ra ở nhiều địa phương… Trong đó, phải kể đến những nỗ lực trong việc ban hành các văn bản pháp luật, với số lượng lớn văn bản mới được ban hành trong mấy năm gần đây, sau Hiến pháp năm 2013.
Đáng mừng là hoạt động lập pháp ở nước ta vừa “được mùa”, với một khối lượng khổng lồ các đạo luật, bộ luật mới được ban hành: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Đất đai 2013, Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Hộ tịch, Luật Căn cước, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Tố tụng hành chính, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Giao thông đường bộ… Từ ngày 01/01/2018, một loạt văn bản pháp luật hình sự mới của Việt Nam có hiệu lực, bao gồm Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Trong đó đã có nhiều quy định mới, tạo cơ chế bảo vệ tốt hơn các quyền công dân, hạn chế những lạm quyền, tiêu cực trong tố tụng, gây oan sai thường hay xảy ra trước khi có quy định mới này.
Ảnh minh họa.
Vẫn thiếu vắng tinh thần thượng tôn pháp luật?
Chúng ta cần nhìn vào thực tế hiện nay, pháp luật ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống, thiếu vắng tinh thần thượng tôn pháp luật trong cộng đồng và ngay tại các cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Nhận định này xuất phát từ thực tế tiếp cận với một số cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp khi chúng tôi làm tư vấn cho người dân và doanh nghiệp trong nhiều năm vừa qua.
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định yêu cầu tòa án tuyên văn bản công chứng vô hiệu là yêu cầu giải quyết việc dân sự. Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, được quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng quy định này không đến được tòa án cấp quận. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 đã nêu rõ thời hạn giải quyết việc tòa tuyên văn bản công chứng vô hiệu tại Điều 24 của Nghị quyết. Năm 2015, 08 hộ dân gửi đơn và hồ sơ tới Tòa án nhân dân quận Tây Hồ đề nghị Tòa tuyên vô hiệu văn bản công chứng sau khi họ ký hợp đồng ủy quyền. Đơn đề nghị Tòa tuyên văn bản công chứng vô hiệu đã làm theo đúng nội dung đơn quy định tại Điều 312 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng bị Tòa từ chối giải quyết. Cán bộ tòa án gọi một số người có đơn đến Tòa để vận động họ rút đơn và chuyển sang làm đơn khởi kiện, trong khi họ không có tranh chấp về việc này.
Ở cơ quan hành chính cũng có trường hợp quy định của Bộ luật Dân sự không đi vào được, như trường hợp ông Nguyễn Thượng Uyển, là sĩ quan quân đội nghỉ hưu, đã nhiều lần gửi đơn đến Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu bảo đảm quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của ông tại căn nhà số 112/38, đường Trần Phú, phường 5, TP. Vũng Tàu. Ông Uyển đã được Ủy ban nhân dân TP. Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 09/2009 ngày 12/01/2009. Ông Uyển và vợ là Vũ Thị Oanh cùng đứng tên đồng sở hữu chủ căn nhà nói trên trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu do Ủy ban nhân dân TP. Vũng Tàu cấp; nguồn gốc từ Giấy chứng nhận quyền sở hữu số 182/2008 ngày 02/4/2008 do Ủy ban nhân dân TP. Vũng Tàu cấp cho ông Phạm Xuân Lợi và vợ là bà Đinh Thị Huân đứng tên đồng sở hữu chủ.
Thực hiện quyền của chủ sở hữu quy định tại Bộ luật Dân sự, ngày 10/8/2013, vợ chồng ông Nguyễn Thượng Uyển đã ký hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất này cho bà Trần Phương Thảo tại Phòng Công chứng số 1 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng hồ sơ chuyển nhượng này đã bị ách tắc tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất TP. Vũng Tàu, với lý do ngày 17/5/2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ra Quyết định số 1157/QĐ-UBND hủy bỏ Quyết định số 5583/QĐ-UBND ngày 28/12/2007 phê duyệt bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cho ông bà Phạm Xuân Lợi - Đinh Thị Huân.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã dựa vào một quyết định đã bị vô hiệu theo quy định của pháp luật để ngăn cản việc chủ sở hữu hợp pháp thực hiện các quyền chiếm đoạt, sở hữu và định đoạt của mình, rõ ràng là thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật.
Văn bản pháp luật còn mang dáng dấp của nghị quyết
Một trong nhiều nguyên nhân của tình hình là do các văn bản pháp luật còn dài dòng, nhiều quy định có tính chủ quan, áp đặt, xa rời đời sống xã hội, nặng về quy định có tính định tính và ít quy định có tính định lượng.
Tại cuộc “Hội nghị đối thoại về các vướng mắc Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư” vừa diễn ra, một số tham luận cũng bày tỏ băn khoăn, lo ngại vì văn bản pháp luật còn có quy định mơ hồ, khó hiểu. Tham luận của ông Quách Ngọc Tuấn đề cập đến khái niệm “kinh doanh” và khái niệm “đầu tư” tại hai luật (Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư) cho thấy chúng quá mơ hồ: “đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần góp vốn của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn hoặc thực hiện dự án đầu tư” và “kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thị sản phẩm hoặc cung ứng trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Điều đó khiến cả hai luật này rất khó đi vào cuộc sống - nhất là Luật Đầu tư dài và nhiều quy định chỉ “để mà quy định”. Còn Luật Doanh nghiệp cũng có khiếm khuyết tương tự, cần thu gọn lại hay chủ yếu phải “bãi bỏ” bớt đi.
Một số kiến nghị khác đáng quan tâm, như kiên quyết bỏ Điều 44 Luật Doanh nghiệp hiện hành về con dấu, hay đã là nền kinh tế thị trường thực sự thì cần loại bỏ 22 điều - từ Điều 88 đến Điều 109 của Luật Doanh nghiệp hiện hành, bảo đảm nguyên tắc các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và doanh nghiệp nhà nước đúng là thuộc loại hình công ty TNHH theo quy định của Luật. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước không còn có chủ quản là các bộ nữa và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực thi hành.
Đã có người mạnh dạn đề nghị, nên bỏ Luật Đầu tư hoặc tiến tới nhập hai luật này thành Luật Kinh doanh - đầu tư, bao hàm cả quy định ra nhập thị trường và quy định về quản lý đầu tư - kinh doanh. Nhờ đó có thể rút gọn và tập hợp những quy định sát thực tiễn cuộc sống, thực sự đi vào đời sống kinh tế - dân sự.
Làm gì để đẩy nhanh việc đưa pháp luật vào cuộc sống?
Có lẽ, chuyện đầu tiên cần bàn là phải tập trung sức nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật mới ban hành, tránh các văn bản pháp luật mang dáng dấp của một “nghị quyết”. Điều khó nhất là phải loại bỏ những quy phạm có tính định tính đang phổ biến trong các văn bản pháp luật hiện hành - thay bằng các quy phạm có tính định lượng, bảo đảm cho người thực thi và dân chúng chỉ hiểu chúng theo một nghĩa duy nhất mà thôi. Hết sức tránh những văn bản pháp luật miên man, chung chung, có vẻ mơ hồ, nhiều chỗ không rõ ràng, khó hiểu.
Mặt khác, cần dày công nghiên cứu, chuẩn bị để tới đây, từ năm 2019, việc xây dựng văn bản pháp luật phải bảo đảm đồng thời cả 05 tiêu chí: gọn, rõ, đủ, chính xác và dễ (dễ thực hiện và kiểm tra, kiểm soát), để tránh chúng rơi vào số phận giống như Bộ luật Hình sự 2015 thời gian qua đã phải tạm dừng thi hành để sửa lại.
Hai là, đội ngũ các quan chức bộ máy hành chính, tư pháp cần được tập huấn định kỳ - có sát hạch, cấp chứng chỉ về việc đã nắm chắc nội dung và khả năng áp dụng, kiểm soát được việc thực thi những văn bản pháp luật liên quan đến chức phận của mình. Và, hơn thế nữa, làm sao hình thành chế độ sát hạch đối với mỗi nhân viên tư pháp hay hành chính để bảo đảm: công chức làm việc gì phải hiểu rành rẽ, đầy đủ các quy định của pháp luật liên quan đến công vụ họ đang làm.
Nhiều việc cần làm để đẩy nhanh việc đưa pháp luật vào cuộc sống, khi CPTPP đã có hiệu lực ngay đầu năm 2019 này. Bởi CPTPP tạo ra sức ép thúc đẩy cải cách về thể chế kinh tế trong nước. Với rất nhiều cam kết về các vấn đề nằm sâu bên trong đường biên giới, thực hiện CPTPP, Việt Nam sẽ phải sửa đổi hàng loạt các quy định về cạnh tranh, về môi trường, lao động, mua sắm công, doanh nghiệp nhà nước... Chính phủ cũng tiếp tục cho triển khai việc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để thực thi các cam kết của Hiệp định CPTPP. Đây sẽ là ngoại lực để thúc đẩy cải cách bên trong của Việt Nam.Theo đó, Việt Nam cũng đẩy mạnh cải cách ở một số lĩnh vực, trong đó có cải cách doanh nghiệp nhà nước, mua sắm Chính phủ, tiêu chuẩn lao động, doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Chính phủ cam kết tiếp tục xây dựng một Chính phủ kiến tạo, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế; quyết liệt đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; tạo sự liên thông giữa các bộ, ngành để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh, thúc đẩy kết nối và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Đây được coi là một động lực bên ngoài thúc đẩy cải cách trong nước rất cần thiết, không chỉ giúp Việt Nam thu được lợi ích từ CPTPP mà còn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh trong dài hạn.Việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Hiệp định sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Phần quan trọng khác chính là việc giúp ta cải cách thể chế trong nước, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thông thoáng, minh bạch.
Theo đó, cần khẩn trương sửa đổi Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật về đầu tư - kinh doanh. Việc sửa đổi Bộ luật Lao động và đổi mới hệ thống quan hệ lao động phù hợp với Tuyên bố 1998 của ILO và bối cảnh của Việt Nam chắc chắn sẽ giúp ích cho vấn đề này. Dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi đang hoàn thiện sẽ có nhiều thay đổi nhằm điều chỉnh quan hệ lao động giữa giới chủ với người lao động. Trong các đề xuất sửa đổi, đáng chú ý là đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu (nữ lên 60 tuổi, nam lên 62 tuổi); cho phép người lao động thành lập các tổ chức riêng đại diện cho mình; tăng giờ làm thêm... Nếu được thông qua, những thay đổi theo Dự Luật sẽ tác động không nhỏ vào thị trường lao động Việt Nam.
Sửa đổi Bộ luật Lao động cần hướng tới thay đổi tư duy cào bằng, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu sang làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Từ đó loại bỏ tư duy chờ đợi, dựa dẫm của một bộ phận lao động hiện nay. Bởi lẽ, hiện nay thị trường lao động Việt Nam mới hoạt động đúng một nửa là thị trường, còn lại vẫn theo tư duy bao cấp, kinh tế kế hoạch. Do đó, việc sửa đổi Bộ luật Lao động sẽ giúp thị trường lao động hoạt động đúng nghĩa hơn. Theo đó, Việt Nam phải tuân theo tiêu chuẩn lao động quốc tế, nhờ đó thị trường lao động sẽ minh bạch và bảo đảm quyền lợi các bên tốt hơn, cạnh tranh cũng bình đẳng hơn.
Bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là bước đi hiện thực đầu tiên trong cải cách thể chế kinh tế. Đây là một trong số những điểm mới tại nghị định thay thế Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Hiện tại, việc lấy ý kiến cho việc xây dựng Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư đang đang được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng các bộ ngành, các tổ chức hiệp hội lấy ý kiến. Nghị định sửa đổi Nghị định 15/2015/NĐ-CP sẽ có những điểm mới liên quan đến trình tự thực hiện dự án công nghệ cao; bổ sung nguồn vốn Nhà nước tham gia vào dự án PPP; bổ sung quy trình quyết định chủ trương đầu tư; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; việc thực hiện dự án PPP của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội...
Năm 2019 được kỳ vọng là năm quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Bởi năm 2018 đã đánh dấu thời kỳ mới với những biến đổi lớn lao về môi trường kinh tế - xã hội, với hai sự kiện trọng đại: ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và nhiều biến đổi về thể chế kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, công nghiệp 4.0 ập đến đang làm biến đổi mạnh mẽ quan hệ kinh tế - xã hội, kéo theo nhiều hệ lụy mà không ít cơ quan hữu trách đang rất lúng túng, bị động. Việt Nam đã ký kết, tham gia 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 4 FTA mới, trong đó có 18 đối tác thuộc các nền kinh tế APEC. Thực tế đó chứng minh hội nhập quốc tế về kinh tế là một tất yếu khách quan và nền kinh tế thị trường là định hướng phát triển của chúng ta. Đi kèm với nó là sự gia tăng mạnh của sức ép cạnh tranh mà cả nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm lời giải cho mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình này. Nhằm mục tiêu đó, tất yếu mỗi cấp, mỗi ngành đều phải nỗ lực đẩy nhanh việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật, bởi đó là động lực giúp chúng ta tiến tới “ngang bằng với thiên hạ” trong thời kỳ mới này.
Luật gia Phan Văn Tân