/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Sự phát triển nhận thức của Đảng về an ninh con người từ Đại hội XII đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

Sự phát triển nhận thức của Đảng về an ninh con người từ Đại hội XII đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

13/11/2025 06:50 |

(LSVN) - Khái niệm “an ninh con người” ngày càng được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Từ Đại hội XII (2016) đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV (2025), tư duy của Đảng về an ninh con người đã phát triển mạnh mẽ theo hướng toàn diện, gắn kết chặt chẽ giữa an ninh quốc gia, an sinh xã hội, và phát triển con người. Bài viết này phân tích quá trình phát triển nhận thức của Đảng về ANCN qua các kỳ Đại hội, chỉ ra nội hàm mới trong tư duy chính trị - lý luận của Đảng, đồng thời nêu bật những định hướng lớn trong giai đoạn tới.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và đa chiều với tốc độ chóng mặt, kèm cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa cường quốc, cùng sự nổi lên của các thách thức phi truyền thống như biến đổi khí hậu toàn cầu, đại dịch bệnh truyền nhiễm, khủng hoảng năng lượng và tài nguyên, suy thoái môi trường, bất bình đẳng xã hội, rủi ro an ninh mạng, khái niệm an ninh con người (ANCN) đã khẳng định vị thế trung tâm trong hệ thống hoạch định chính sách quốc gia của các quốc gia. Khái niệm này, được Liên Hợp quốc chính thức hóa qua Báo cáo Phát triển Con người năm 1994, nhấn mạnh an ninh không chỉ bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền nhà nước mà phải mở rộng bảo vệ toàn diện cá nhân và cộng đồng khỏi các mối đe dọa trực tiếp đến sự sống còn, phẩm giá và phát triển bền vững của con người [1]. Tại Việt Nam, dưới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, ANCN đã từng bước nội tại hóa từ lý luận học thuật - vốn được các nhà nghiên cứu chính trị và quan hệ quốc tế thảo luận - vào nội dung cốt lõi của đường lối lãnh đạo, quản lý nhà nước và thực tiễn phát triển đất nước. Quá trình này phản ánh thích ứng linh hoạt với bối cảnh quốc tế và đánh dấu bước phát triển mới mẻ, sâu sắc trong tư duy lý luận chính trị của Đảng, hướng tới đặt con người làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển và bảo vệ an ninh quốc gia.

Nếu như trước Đại hội XII (2016), từ sau Đổi mới 1986, tư duy an ninh của Đảng chủ yếu tập trung vào yếu tố truyền thống như bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc, an ninh chính trị nội bộ, quốc phòng toàn dân và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - nền tảng đảm bảo tồn tại và phát triển chế độ XHCN [2], thì từ Đại hội XII, Đảng thực hiện chuyển dịch nhận thức mang tính cách mạng, mở rộng cách tiếp cận an ninh toàn diện và nhân văn hơn. Cụ thể, con người không còn là đối tượng thụ động cần bảo vệ mà được nâng tầm thành trung tâm, chủ thể và mục tiêu cuối cùng của mọi chính sách an ninh. Sự chuyển dịch này xuất phát từ nhận diện rằng các thách thức phi truyền thống không chỉ đe dọa nhà nước mà trực tiếp ảnh hưởng đến sự sống còn, sức khỏe, giáo dục, việc làm, môi trường sống và quyền lợi cơ bản của cá nhân và cộng đồng, đòi hỏi mô hình an ninh tích hợp giữa an ninh quốc gia truyền thống và ANCN hiện đại [3].

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Sự phát triển nhận thức này được thể hiện rõ nét, logic và có hệ thống qua Văn kiện Đại hội Đảng XII (2016), XIII (2021) và Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV (2025) - những tài liệu lãnh đạo cao nhất phản ánh tiến bộ lý luận của Đảng trong xây dựng xã hội phát triển toàn diện, bền vững, nhân văn và tiến bộ XHCN. Tại Đại hội XII, Đảng lần đầu nhấn mạnh “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN” phải lấy con người làm gốc, với trọng tâm đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững và ứng phó biến đổi khí hậu như các yếu tố cốt lõi của an ninh quốc gia [4]. Đến Đại hội XIII, nhận thức nâng tầm khi Văn kiện khẳng định “phát triển con người toàn diện” là mục tiêu chiến lược, tích hợp ANCN vào sáu nhiệm vụ trọng tâm, bao gồm đối phó đại dịch Covid-19 như bài học thực tiễn về an ninh phi truyền thống [5]. Và trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, sự phát triển đạt đỉnh cao với đề xuất khung lý luận “ANCN toàn diện” làm nền tảng cho chiến lược phát triển quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, nhấn mạnh quyền con người, dân chủ XHCN và trách nhiệm Nhà nước trong bảo vệ cá nhân trước mọi rủi ro toàn cầu [6].

Sự phát triển nhận thức của Đảng về ANCN không chỉ là bổ sung mà là cuộc cách mạng tư duy, phù hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc”, đồng thời hội nhập với nguyên tắc quyền con người quốc tế theo Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 và các Công ước Liên Hợp Quốc. Điều này khẳng định ANCN là điều kiện tiên quyết cho ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ chế độ, góp phần xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Phân tích sâu, vấn đề trọng tâm là Đảng đã chuyển từ mô hình an ninh nhà nước trung tâm (state-centric security) sang mô hình ANCN trung tâm (human-centric security), bao quát bảy lĩnh vực chính theo khung Liên Hợp Quốc: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Nội dung này không chỉ dừng ở lý thuyết mà cụ thể hóa qua các chính sách như Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, và biện pháp ứng phó dịch bệnh, từ đó nâng cao năng lực resilient (khả năng phục hồi) của xã hội Việt Nam trước các cú sốc toàn cầu.

Sự phát triển nhận thức của Đảng từ Đại hội XII đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về ANCN đại diện cho bước tiến vượt bậc trong việc nhân văn hóa đường lối lãnh đạo, đảm bảo quyền con người thực chất và thúc đẩy phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế như một quốc gia trách nhiệm và tiến bộ.

2. Từ an ninh quốc gia đến ANCN: Bước phát triển trong tư duy của Đảng

Khái niệm “an ninh con người” được Liên Hợp Quốc chính thức hóa trong Báo cáo Phát triển Con người 1994 (UNDP), đánh dấu bước ngoặt tái định nghĩa an ninh từ góc độ con người thay vì chỉ nhà nước. Báo cáo xác lập bảy trụ cột: (i) an ninh kinh tế - thu nhập ổn định, việc làm bền vững; (ii) an ninh lương thực - tiếp cận thực phẩm dinh dưỡng; (iii) an ninh y tế - bảo vệ dịch bệnh, dịch vụ y tế; (iv) an ninh môi trường - môi trường an toàn; (v) an ninh cá nhân - khỏi bạo lực, tội phạm, tra tấn; (vi) an ninh cộng đồng - gắn kết xã hội, bảo vệ nhóm yếu thế; (vii) an ninh chính trị - quyền tự do ngôn luận, tham gia chính trị, không đàn áp [7]. Khung này được các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam, tiếp thu và bản địa hóa phù hợp lịch sử - văn hóa, hệ thống chính trị - xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhấn mạnh - “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Cách mạng là để đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân” [8], đã sớm nội tại hóa tinh thần nhân văn ANCN từ Đổi mới (1986). Tuy nhiên, đến Đại hội XII (2016), tư duy này mới thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh, làm kim chỉ nam lãnh đạo. Sự hình thành không sao chép mà từ ba xu thế khách quan, chủ quan liên kết, tạo nền tảng khoa học, thực tiễn cho chuyển đổi mô hình an ninh.

Thứ nhất, xu thế toàn cầu chuyển từ “an ninh nhà nước” sang “an ninh vì con người” tạo áp lực, cơ hội điều chỉnh. Sau Chiến tranh Lạnh, đe dọa phi truyền thống không biên giới thách thức an ninh truyền thống. Ủy ban ANCN (Ogata và Sen) trong Human Security Now (2003): “ANCN là bảo vệ con người khỏi đe dọa nghiêm trọng, trao quyền xây dựng cuộc sống an toàn, phẩm giá” [9]. Xu thế củng cố qua Nghị quyết A/RES/66/290 (2012) công nhận tiếp cận toàn diện, lấy con người trung tâm [10]. Việt Nam tham gia Tuyên bố ASEAN về ANCN (2013), cam kết lồng ghép bảy trụ cột vào chiến lược quốc gia [11].

Thứ hai, yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân thúc đẩy nâng tầm quyền con người và ANCN như chỉnh thể biện chứng. Hiến pháp 2013 dành Chương II quy định 36 điều khoản quyền con người, công dân; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân” (Điều 4); quyền chỉ hạn chế vì quốc phòng, an ninh, trật tự (Điều 14) [12]. Theo Mác-xít, quyền con người cụ thể, gắn kinh tế - xã hội, trách nhiệm Nhà nước XHCN. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (2016): “Bảo vệ quyền con người, công dân thực chất, không oan sai, bức cung, nhục hình” [13] - nền tảng mở rộng an ninh từ nhà nước sang con người.

Thứ ba, thực tiễn trong nước với rủi ro phi truyền thống gia tăng đòi hỏi bảo vệ con người toàn diện, kịp thời. Từ 2016 - 2025: bão lụt miền Trung (2020) thiệt hại hàng chục nghìn tỷ, hàng trăm người chết; Covid-19 hơn 43.000 người tử vong, gián đoạn sinh kế hàng triệu lao động; báo động ô nhiễm không khí Hà Nội, TP. HCM vượt ngưỡng WHO; hơn 100.000 tấn công mạng/năm; thông tin sai lệch suy giảm niềm tin [14]. Những sự kiện chứng minh an ninh truyền thống không đủ nếu thiếu ANCN đồng bộ dựa dự báo, phòng ngừa, phục hồi. Báo cáo Chính phủ 2024: “Rủi ro phi truyền thống từ tiềm ẩn thành thách thức trực tiếp đến sống còn cá nhân, cộng đồng” [15].

Như vậy, ANCN dưới sự lãnh đạo Đảng không tách rời hay đối lập an ninh quốc gia mà mở rộng nội hàm, bổ sung chiều sâu nhân văn, toàn diện. Đây là phát triển biện chứng: an ninh quốc gia điều kiện cần, ANCN mục tiêu đủ; nhà nước nền tảng, cá nhân đích đến. Đảng áp dụng “lấy dân làm gốc” Hồ Chí Minh bản địa hóa bảy trụ cột thành chính sách: Chương trình giảm nghèo bền vững 2021 - 2025, Chiến lược bình đẳng giới, Đề án chuyển đổi số 2030 - bảo vệ con người, trao quyền làm chủ thể an ninh [16].

Tóm lại, cơ sở tư duy mới về ANCN là kết tinh lý luận quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu cầu NNPQ XHCN và bài học thực tiễn bảo vệ đất nước. Chuyển đổi này là cách mạng tư duy chiến lược, khẳng định Đảng tiên phong nhân văn hóa an ninh, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

3. Sự phát triển nhận thức của Đảng qua các kỳ Đại hội

3.1. Đại hội XII (2016): Lần đầu xác lập “ANCN” - bước ngoặt từ an ninh nhà nước sang lấy con người làm trung tâm

Đại hội XII (2016) ghi dấu lịch sử khi lần đầu chính thức đưa “ANCN” vào văn kiện lãnh đạo cao nhất. Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày khẳng định: “Chủ động phòng ngừa... giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Chú trọng bảo đảm ANCN, an ninh xã hội, an ninh văn hóa; coi trọng yếu tố con người trong phát triển bền vững” [17].

Luận điểm này là tuyên ngôn lý luận bước ngoặt, thể hiện chuyển dịch biện chứng từ an ninh truyền thống - tập trung bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chế độ chính trị, trật tự xã hội, đại đoàn kết toàn dân - sang mô hình toàn diện, nhân văn, lấy con người làm trung tâm, chủ thể và mục tiêu cuối cùng. Trước Đại hội XII, khái niệm an ninh chủ yếu hiểu hẹp: bảo vệ Nhà nước, chế độ, lãnh thổ. Đến XII, con người được nâng tầm từ “đối tượng được bảo vệ” thành “chủ thể của an ninh và phát triển”, phù hợp Hiến pháp 2013 (Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”; Điều 14: quyền con người chỉ hạn chế vì quốc phòng, an ninh quốc gia) [18] và tư tưởng Hồ Chí Minh: “Cách mạng là để đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Mọi chính sách... vì lợi ích nhân dân, lấy hạnh phúc nhân dân làm mục tiêu” [19].

Sự xác lập đồng bộ với Chiến lược phát triển bền vững 2011 - 2020 (Quyết định 432/QĐ-TTg, 12/4/2012) [20]: mục tiêu 1 nhấn mạnh phát triển con người toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức; mục tiêu 16 xác định bảo đảm ANCN trước rủi ro thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Đại hội XII mở hướng tiếp cận tích hợp, đa chiều, ANCN thành cấu phần hữu cơ, không tách rời của an ninh quốc gia toàn diện. Đây là tiền đề vững chắc để Đại hội XIII và Dự thảo XIV tiếp tục mở rộng phạm vi, nội hàm, cơ chế thực thi và hệ thống chỉ số đo lường.

3.2. Đại hội XIII (2021): ANCN được nâng lên thành yêu cầu cốt lõi trong phát triển bền vững - từ khái niệm lý luận đến trụ cột chiến lược quốc gia

Đại hội XIII (2021) đưa nhận thức ANCN lên tầm cao mới, không dừng ở tuyên ngôn chính trị - xã hội mà thành yêu cầu cốt lõi, điều kiện tiên quyết phát triển nhanh và bền vững. Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày khẳng định: “Phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và bảo đảm ANCN”; “Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, ANCN” [21].

Cụm từ “ANCN” nhắc ít nhất ba lần trong văn kiện (Báo cáo chính trị, kinh tế - xã hội, Chiến lược 10 năm), không còn phụ trợ mà thành trụ cột chiến lược ngang hàng tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, Đảng xác định nguyên tắc cốt lõi: “Con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của sự phát triển” [22].

Luận điểm khớp nối khung ANCN UNDP (1994), bản địa hóa sáng tạo trong CNXH khoa học: con người không chỉ thụ hưởng chính sách mà là chủ thể lịch sử, lực lượng sáng tạo của cải vật chất, giá trị văn hóa, phù hợp nguyên lý Mác - Lênin: “Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử” [23].

Đại dịch Covid-19 (2020 - 2021) là bài học thực tiễn sống động. Nghị quyết 128/NQ-CP (11/10/2021) về thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch áp dụng “không để ai bị bỏ lại phía sau” - khẩu hiệu từ SDGs Liên Hợp Quốc [24] - triển khai gói hỗ trợ an sinh 62.000 tỷ đồng cho hơn 20 triệu lao động, hộ nghèo, doanh nghiệp nhỏ và vừa [25]. Đây là minh chứng ANCN không chỉ mục tiêu xã hội mà điều kiện bảo đảm ổn định chính trị, phục hồi kinh tế, củng cố niềm tin nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

3.3. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV (2025): Hoàn thiện nhận thức lý luận, cụ thể hóa thành hệ thống chiến lược - xây dựng mô hình “ANCN toàn diện” trong kỷ nguyên mới

Dự thảo BCCT Đại hội XIV (phiên bản lấy ý kiến nhân dân, công bố ngày 15/10/2025) đã đưa nhận thức về ANCN lên đỉnh cao lý luận và thực tiễn, hoàn thiện cả về nội hàm, cơ chế, chỉ số đo lường và hệ thống chính sách. Văn kiện khẳng định hai luận điểm chiến lược then chốt: “Bảo đảm ANCN toàn diện, lấy con người làm trung tâm của chiến lược phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau”. [26] “Xây dựng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, an toàn cho mỗi người dân về đời sống vật chất, tinh thần, môi trường và cơ hội phát triển”. [26]

Điểm đột phá lý luận nằm ở chỗ:

“ANCN toàn diện” được định nghĩa là sự bảo vệ đồng bộ, liên ngành trên bảy lĩnh vực trụ cột (kinh tế, lương thực, y tế, môi trường, cá nhân, cộng đồng, chính trị) - đồng nhất với khung UNDP 1994 nhưng được Việt Nam hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh (“lấy dân làm gốc”) và điều kiện phát triển XHCN.

Lần đầu tiên, ANCN được gắn kết biện chứng với ba chuyển đổi chiến lược quốc gia: chuyển đổi xanh (Net Zero 2050), chuyển đổi số (Chính phủ số, xã hội số), và chuyển đổi công bằng xã hội (giảm bất bình đẳng Gini từ 0,37 xuống dưới 0,35 vào 2030).

Văn kiện đề xuất xây dựng Bộ chỉ số ANCN Việt Nam (Vietnam Human Security Index - VHSI) với 35 tiêu chí định lượng và định tính, dự kiến triển khai thí điểm từ năm 2027 tại 63 tỉnh/thành, làm cơ sở đánh giá hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương [27].

Cách tiếp cận này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa “ANCN” và “an ninh quốc gia”:

An ninh quốc gia là điều kiện cần - bảo vệ độc lập, chủ quyền, chế độ XHCN.

ANCN là mục tiêu đủ - đảm bảo mỗi người dân được sống an toàn, tự do, có phẩm giá và cơ hội phát triển toàn diện.

ANCN là nền tảng vững chắc cho an ninh quốc gia trong kỷ nguyên phi truyền thống, khi các mối đe dọa không còn đến từ chiến tranh xâm lược mà từ biến đổi khí hậu, dịch bệnh, bất bình đẳng, mất lòng tin xã hội, và chiến tranh thông tin.

Dự thảo Đại hội XIV đã hoàn thiện mô hình an ninh XHCN kiểu mới với bốn đặc trưng cốt lõi:

Nhân văn hóa an ninh - lấy hạnh phúc và phẩm giá con người làm mục tiêu tối thượng.

Dân chủ hóa an ninh - nhân dân là chủ thể tham gia xây dựng, giám sát và thụ hưởng an ninh.

Pháp quyền hóa an ninh - mọi chính sách phải dựa trên Hiến pháp 2013, các Công ước quốc tế về quyền con người (ICCPR, ICESCR) mà Việt Nam là thành viên.

Khoa học hóa an ninh - dựa trên dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, dự báo rủi ro và đánh giá tác động xã hội.

4. Những nội dung mới trong tư duy của Đảng về ANCN - năm điểm đổi mới căn bản phản ánh bước tiến lý luận biện chứng trong lãnh đạo phát triển đất nước

Từ hành trình phát triển nhận thức về ANCN qua các Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), XIII (2021) và đặc biệt là Dự thảo BCCT Đại hội XIV (2025), có thể khái quát một cách khoa học, biện chứng và hệ thống năm điểm đổi mới căn bản trong tư duy lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những đổi mới này không chỉ là sự bổ sung nội hàm mà còn đại diện cho một cuộc cách mạng tư duy chiến lược, chuyển dịch từ mô hình an ninh quốc gia truyền thống (tập trung vào nhà nước trung tâm, an ninh chính trị - quốc phòng) sang mô hình ANCN toàn diện, nhân văn, bao trùm và bền vững (lấy con người làm trung tâm, chủ thể và mục tiêu). Sự phát triển này được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc” và “đem lại hạnh phúc cho nhân dân”, đồng thời hội nhập với các nguyên tắc quyền con người quốc tế theo Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 (Điều 3: quyền sống, tự do và an ninh cá nhân) [34] và khung ANCN của UNDP (1994) với bảy trụ cột cốt lõi. Năm điểm đổi mới này khẳng định rằng ANCN không phải là khái niệm trừu tượng mà là quyền cơ bản, thực chất của con người, là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền phát triển toàn diện (theo Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa - ICESCR, mà Việt Nam phê chuẩn năm 1982 [38]), góp phần xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân.

4.1. Từ phạm vi hẹp (chính trị - quốc phòng) sang rộng (xã hội - môi trường - số hóa): mở rộng nội hàm ANCN mọi lĩnh vực, đảm bảo quyền con người toàn diện

Trước Đại hội XII, an ninh tập trung hẹp: chính trị nội bộ, quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ bảo vệ chế độ, nhà nước. Từ Đại hội XII và Dự thảo Đại hội XIV, ANCN mở rộng đa chiều, bao trùm đời sống: an sinh, sức khỏe, giáo dục, môi trường, văn hóa, thông tin, mạng. Dự thảo: “Bảo vệ an ninh quốc gia, ANCN, an ninh kinh tế, an ninh mạng; ngăn ngừa... mất ổn định chính trị” [28]; hạn chế: “An sinh xã hội, ANCN, phúc lợi chưa vững chắc”, cần khắc phục đảm bảo quyền con người thực chất.

Cụ thể hóa: (i) xã hội - giảm nghèo đa chiều, nhà ở (xóa nhà tạm 2025); (ii) sức khỏe - kiểm soát dịch, bảo hiểm y tế 95,2% (2025); (iii) giáo dục - miễn học phí phổ thông, trường nội trú biên giới; (iv) môi trường - ứng phó khí hậu, tài nguyên biển; (v) văn hóa - công nghiệp văn hóa, bản sắc dân tộc; (vi) thông tin, mạng - chủ quyền số, chống sai lệch; (vii) kinh tế - ổn định vĩ mô, thặng dư thương mại. Phù hợp bảy trụ cột Liên Hợp Quốc, bản địa hóa Hồ Chí Minh, nền tảng quyền phát triển bền vững, không ai bỏ lại (SDGs).

4.2. Từ “đối tượng bảo vệ” sang “chủ thể sáng tạo an ninh”: nâng tầm con người thành chủ thể tham gia xây dựng và giám sát an ninh, thực hiện quyền dân chủ XHCN

Trong các giai đoạn trước, con người chủ yếu được xem là đối tượng thụ động cần Nhà nước bảo vệ khỏi các mối đe dọa. Từ Đại hội XII, Đảng đã thực hiện sự chuyển dịch biện chứng, nâng con người thành chủ thể sáng tạo an ninh - nghĩa là nhân dân không chỉ được bảo vệ mà còn tham gia chủ động vào việc xây dựng, giám sát và thụ hưởng an ninh. Dự thảo Đại hội XIV nhấn mạnh: “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, và “phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”, với cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Cụ thể, sự đổi mới này được thể hiện qua: (i) dân chủ cơ sở - lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Văn kiện (hơn 10 triệu lượt [32]); (ii) tham gia giám sát - qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ; (iii) giáo dục nhận thức - đưa ANCN vào chương trình giáo dục quốc dân [33]; (iv) tự quản cộng đồng - mô hình an ninh trật tự cơ sở vững mạnh. Đây là sự Việt Nam hóa nguyên tắc “dân là gốc” của Hồ Chí Minh, đồng thời thực hiện quyền tham gia chính trị theo ICCPR (Việt Nam phê chuẩn 1982 [39]), biến ANCN thành công cụ trao quyền, nâng cao khả năng phục hồi (resilience) của xã hội trước các rủi ro phi truyền thống.

4.3. Từ “an ninh tĩnh” sang “an ninh động” trong bối cảnh biến động toàn cầu: nhấn mạnh khả năng ứng phó, thích ứng và phục hồi, bảo vệ quyền sống còn trước thách thức phi truyền thống

Tư duy an ninh tĩnh (phòng thủ thụ động) trước đây đã được thay thế bằng an ninh động - tập trung vào dự báo, ứng phó linh hoạt và phục hồi nhanh chóng trước các cú sốc toàn cầu như đại dịch, thiên tai, biến đổi khí hậu. Dự thảo Văn kiện XIV chỉ rõ: “Ứng phó kịp thời, hiệu quả thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống”, và “chủ động, từ sớm, từ xa ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, mất an ninh”, với bài học từ Covid-19 (kiểm soát tốt dịch bệnh, tiêm chủng miễn phí ).

Các biện pháp cụ thể: (i) dự báo rủi ro - nâng cao năng lực cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu ; (ii) ứng phó linh hoạt - Nghị quyết 128/NQ-CP về thích ứng Covid-19 [25]; (iii) phục hồi bao trùm - gói hỗ trợ sau thiên tai (như bão Yagi 2024, bão Bualoi, Matmo năm 2025... [35]); (iv) xây dựng xã hội phục hồi - chuyển đổi xanh, số hóa môi trường. Sự đổi mới này tiếp thu khái niệm “resilience” từ Báo cáo ANCN 2003 và Khung Sendai 2015 - 2030 [36], nhưng gắn với “sức mạnh nội sinh của dân tộc”, đảm bảo quyền sống, sức khỏe và phát triển theo ICESCR.

4.4. Từ “chính trị - quân sự” sang “toàn diện - nhân văn”: tích hợp ANCN vào tổng thể phát triển kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa, nhân văn hóa khái niệm an ninh

An ninh không còn giới hạn ở lĩnh vực chính trị - quân sự mà trở thành trách nhiệm toàn hệ thống, nhân văn hóa bằng cách gắn với phát triển toàn diện. Dự thảo XIV khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại”, và xây dựng “nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân”.

Mô hình “ngũ giác an ninh” được ngầm định: (i) an ninh chính trị - ổn định chế độ ; (ii) an ninh kinh tế - tăng trưởng bền vững, GDP 510 tỉ USD (2025 ); (iii) an ninh xã hội - công bằng, đoàn kết, giảm nghèo 1,3% (2025 ); (iv) an ninh môi trường - xanh, sạch, Net Zero 2050; (v) an ninh văn hóa - bảo vệ bản sắc, phát huy giá trị. Đây là sự nhân văn hóa an ninh theo tư tưởng Hồ Chí Minh [37], phù hợp với quyền văn hóa và môi trường theo ICESCR.

4.5. Từ “chính sách” sang “chiến lược phát triển quốc gia”: nâng ANCN thành định hướng trọng tâm, đo lường thành công của CNXH

ANCN đã vượt khỏi chính sách cục bộ để trở thành một trong sáu định hướng chiến lược lớn trong Dự thảo XIV: “Bảo đảm ANCN toàn diện”, cùng với phát triển kinh tế, NNPQ, phát triển con người. Văn kiện khẳng định: “ANCN là đo lường cao nhất cho sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH”.

Điều này thể hiện sự thống nhất biện chứng: ANCN vừa là kết quả (HDI 0,766, hạnh phúc xếp 46/143), vừa là động lực phát triển, phù hợp với lý luận Đảng về “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH”.

Tóm lại, năm điểm đổi mới này khẳng định bước tiến lý luận sâu sắc của Đảng, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, nhân văn.

5. Liên hệ thực tiễn: Bước chuyển biến biện chứng từ nhận thức lý luận sang thể chế hóa chính sách và nâng tầm quản trị quốc gia trong bảo đảm ANCN - minh chứng sống động cho sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng từ Đại hội XII đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

Sự phát triển nhận thức của Đảng về ANCN không dừng lại ở bình diện khái niệm trừu tượng mà phải được biện chứng hóa thành hành động lãnh đạo thực tiễn, thể chế hóa qua hệ thống chính sách pháp luật và nâng tầm năng lực quản trị quốc gia, nhằm bảo đảm quyền con người thực chất, toàn diện và bền vững. Đây chính là quá trình thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn - một nguyên tắc cốt lõi trong phương pháp luận duy vật biện chứng mà Đảng ta kiên định vận dụng [40]. Từ Đại hội XII (2016) với việc lần đầu tiên đưa khái niệm “ANCN” vào Văn kiện một cách có hệ thống, qua Đại hội XIII (2021) khẳng định “con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của sự phát triển”, đến Dự thảo BCCT Đại hội XIV (2025) nâng tầm ANCN thành một trong sáu định hướng chiến lược trọng tâm của phát triển quốc gia, nhận thức lý luận đã được chuyển hóa thành một hệ thống chính sách đồng bộ, toàn diện, mang tính đột phá, phản ánh rõ nét bước tiến trong quản trị quốc gia theo hướng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân.

5.1. Thể chế hóa nhận thức thành chính sách pháp luật đồng bộ - nền tảng pháp lý bảo đảm quyền con người mọi lĩnh vực

Nhận thức ANCN được thể chế hóa khoa học, hệ thống, chuyển từ “bảo vệ nhà nước” sang “bảo đảm quyền con người” hiến định (Điều 14, Hiến pháp 2013 [41]).

Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam (phát triển con người) giai đoạn 2021 - 2030 (Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ) cụ thể hóa ANCN đa chiều: (i) giáo dục - tiếp cận công bằng, kỹ năng số; (ii) việc làm bền vững - chất lượng, thu nhập ổn định, lao động phi chính thức, vùng sâu; (iii) y tế - dịch vụ toàn dân, phòng dịch; (iv) môi trường - ứng phó khí hậu, tài nguyên [42]. Hiện thực hóa bảy trụ cột UNDP 1994, bản địa hóa, phù hợp quyền phát triển (Điều 1, Tuyên ngôn 1986 [43]).

Chiến lược bảo vệ Tổ quốc mới (Nghị quyết 44-NQ/TW, 24/11/2023) lần đầu đưa “ANCN”, “an ninh phi truyền thống” song song chính trị, quốc phòng [44]: “Bảo đảm ANCN là nền tảng bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”; đe dọa: khí hậu, dịch bệnh, mạng, lương thực, nước. Việt Nam hóa human security (A/RES/66/290, 2012 [31]), quyền sống an ninh, hòa bình (Điều 3, Tuyên ngôn 1948).

Luật pháp đồng bộ: Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2023: an toàn sản phẩm, dữ liệu cá nhân, an ninh kinh tế, thông tin [45]; Luật An toàn thông tin mạng 2015 (sửa đổi 2018), Chiến lược an ninh mạng 2025 - 2030 (Quyết định 145/QĐ-TTg năm 2023): chủ quyền số, chống tấn công, deepfake, chiến tranh thông tin [46].

Chiến lược bình đẳng giới 2021-2030 (NQ 28/NQ-CP, 03/3/2021): quyền bình đẳng giáo dục, y tế, việc làm, quyết định; xóa bất bình đẳng cấu trúc [47].

Văn bản thực thi ICESCR (1982), CEDAW (1982) [48], CRPD (2015) [49], nâng vị thế Việt Nam bảo vệ quyền con người.

5.2. Chuyển hóa thành năng lực quản trị thực chất - minh chứng qua khủng hoảng lớn

Tư duy ANCN chuyển thành quản trị quốc gia, thể hiện ứng phó khủng hoảng, chứng minh đúng đắn, khoa học, nhân văn.

Covid-19 (2020 - 2022): “Không ai bị bỏ lại phía sau”, ngoại giao vắc-xin (>200 triệu liều [50]), tiêm miễn phí (>98% trưởng thành), hỗ trợ >350.000 tỷ đồng [51]. Kết quả: tử vong 0,4% (thấp nhất khu vực [52]), GDP dương 2020 (+2,91%), phục hồi 2021 (+2,58%), 2022 (+8,02%). Minh chứng xã hội có khả năng phục hồi trong Dự thảo Văn kiện XIV, quyền sống, sức khỏe (Điều 12 ICESCR).

Thiên tai miền Trung (2020 - 2024): Siêu bão (Molave, Vamco 2020; Noru 2022; Yagi 2024), quản trị cộng đồng, cảnh báo sớm, sơ tán >1,5 triệu dân [53], hỗ trợ Yagi 100.000 tỷ đồng. Xóa nhà tạm, dột nát 9/2025 - an ninh chỗ ở (UNDP).

An sinh vùng dân tộc thiểu số: Chương trình 2021 - 2030 (Nghị quyết 88/2019/QH14, Quyết định 1719/QĐ-TTg), nghèo đa chiều giảm 24,1% (2020) → 8,5% (2025); 100% xã biên giới trường nội trú; bảo hiểm y tế 95%. Chuyển an ninh tĩnh sang động, bảo vệ con người dễ tổn thương, “không ai bỏ lại” (SDGs).

5.3. Đánh giá tổng quát: Từ lý luận đến thực tiễn - khẳng định giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn của tư duy lãnh đạo Đảng

Thực tiễn chứng minh sự phát triển nhận thức Đảng về ANCN từ Đại hội XII đến Dự thảo XIV không chỉ bổ sung lý luận mà là cách mạng tư duy quản trị, chuyển từ mô hình an ninh nhà nước trung tâm (state-centric) sang ANCN trung tâm (human-centric), từ phản ứng thụ động sang dự báo chủ động, từ bảo vệ chính trị sang đảm bảo quyền con người toàn diện.

Về lý luận: Hoàn thiện hệ thống lý luận CNXH Việt Nam, ANCN thành thước đo thành công xây dựng CNXH. Về thực tiễn: Nâng cao năng lực quản trị quốc gia, tăng sức chống chịu, khả năng phục hồi xã hội trước cú sốc toàn cầu. Về quyền con người: Thực thi hiệu quả cam kết quốc tế, nâng HDI (0,766 - nhóm cao), chỉ số hạnh phúc (46/143), vị thế Việt Nam.

Tóm lại, ANCN là mục tiêu, động lực, phương tiện và kết quả phát triển bền vững, khẳng định Đảng tiên phong, sáng tạo kiến tạo xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói [37].

6. Kết luận

Từ Đại hội XII đến Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về ANCN đã phát triển từ “một khái niệm mới” thành một trụ cột chiến lược của tư duy phát triển quốc gia.

Sự phát triển đó thể hiện rõ ba chiều hướng: (1) mở rộng nội hàm, (2) nâng tầm lý luận, (3) cụ thể hóa bằng thể chế và hành động.

Trong giai đoạn tới, tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng xã hội bao trùm, và phát huy vai trò chủ thể của người dân trong bảo vệ ANCN chính là cách hiện thực hóa tầm nhìn của Đảng về “phát triển con người toàn diện, bảo đảm ANCN, không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:

[1], [7], [29] UNDP (1994). Human Development Report 1994: New Dimensions of Human Security. New York: Oxford University Press.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb CTQG.

[3] Commission on Human Security (2003). Human Security Now. New York: United Nations.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nxb CTQGST.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội: Nxb CTQGST.

[6], [16], [26], [28] Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Dự thảo BCCT Đại hội XIV của Đảng.

[8] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5. Hà Nội: Nxb CTQG, 2011, tr. 698.

[9] Commission on Human Security (2003). Human Security Now: Protecting and Empowering People. New York: United Nations, tr. 4.

[10], [31] Liên Hợp Quốc. Nghị quyết Đại hội đồng A/RES/66/290: Theo dõi việc thực hiện khái niệm ANCN. Ngày 10/9/2012.

[11] ASEAN (2013). Tuyên bố ASEAN về ANCN. Phnom Penh.

[12], [18], [41] Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Hà Nội.

[14] Bộ Công an (2025). Báo cáo An ninh mạng Việt Nam 2024. Hà Nội.

[15] Chính phủ (2024). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 trình Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 8. Hà Nội.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Nxb CTQGST, tr. 78.

[19] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 10. Hà Nội: Nxb CTQG, 2011, tr. 512.

[20] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Hà Nội.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội: Nxb CTQGST, tr. 89, 112.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Văn kiện Đại hội XIII, Hà Nội: Nxb CTQGST, tr. 15.

[23] C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Hà Nội: Nxb Sự thật, 1976, tr. 28.

[24] Liên Hợp Quốc. Chuyển đổi thế giới chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (A/RES/70/1). New York, 2015, Mục tiêu 1.

[25] Chính phủ (2021). Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19.

[27] Viện Nghiên cứu Phát triển Bền vững (2025). Báo cáo nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ số ANCN Việt Nam (VHSI), (tài liệu tham khảo Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV).

[30] Commission on Human Security (2003). Human Security Now. New York: United Nations.

[32] Ban Tuyên giáo Trung ương (2025). Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV.

[33] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025). Chương trình giáo dục phổ thông 2018 - sửa đổi, bổ sung 2025.

[34] Liên Hợp Quốc (1948). Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948. New York.

[35] Chính phủ (2025). Nghị quyết số 347/NQ-CP ngày 24/10/2025 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả thiên tai sau bão số 11, nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát.

[36] Liên Hợp Quốc (2015). Khung Sendai về Giảm nhẹ Rủi ro Thiên tai 2015 - 2030.

[37] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7. Hà Nội: Nxb CTQG, 2011.

[38] Liên Hợp Quốc. Công ước ICESCR. Việt Nam phê chuẩn ngày 24/9/1982.

[39] Liên Hợp Quốc. Công ước ICCPR. Việt Nam phê chuẩn ngày 24/9/1982.

[40] V.I.Lênin. Toàn tập, tập 29. Hà Nội: Nxb CTQG, 2005, tr. 425-430 (về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn).

[42] Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24/7/2021 về việc ban hành Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030.

[43] Liên Hợp Quốc. Tuyên ngôn về Quyền phát triển (A/RES/41/128), ngày 04/12/1986.

[44] Ban Chấp hành Trung ương (2023). Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

[45] Quốc hội (2023). Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 19/2023/QH15 ngày 20/6/2023.

[46] Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày 15/3/2023 phê duyệt Chiến lược An ninh mạng quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

[47] Chính phủ (2021). Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030.

[48] Liên Hợp Quốc. Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Việt Nam phê chuẩn ngày 17/02/1982.

[49] Liên Hợp Quốc. Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD). Việt Nam phê chuẩn ngày 05/02/2015.

[50] Bộ Y tế (2023). Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống dịch Covid-19 giai đoạn 2020 - 2022.

[51] Chính phủ (2021). Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và các gói hỗ trợ kinh tế - xã hội sau đại dịch.

[52] WHO (2023). Covid-19 Dashboard - Viet Nam. Geneva.

[53] Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai (2025). Báo cáo tổng kết ứng phó thiên tai giai đoạn 2020 - 2024.

TS. TRẦN THỊ TÚ QUYÊN

LÊ HÙNG

Học viện Chính trị khu vực I