Ảnh minh họa.
Mọi hoạt động của chính quyền, của kinh tế và của xã hội đang dần được dịch chuyển lên môi trường số giữa thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trước làn sóng mạnh mẽ của chuyển đổi số, hầu hết các nước trên thế giới đều đang nỗ lực hoàn thiện thể chế, pháp luật, ban hành các chiến lược để phát triển lĩnh vực rất tiềm năng này. Và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, điều đó thể hiện thông qua công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Trong quy trình xây dựng luật, hoạt động lập đề nghị nếu đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số thì sẽ góp phần nâng cao được chất lượng của các văn bản luật ở nước ta hiện nay.
Nhu cầu ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động lập đề nghị xây dựng luật
Chuyển đổi số đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hoạt động này đang ngày một thay đổi nhận thức của bộ máy chính quyền nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Vào năm 2025 rất có thể nước ta sẽ có mặt trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới trong chuyển đổi sang nền kinh tế số, xã hội số và quản trị quốc gia sang thời đại số. Thời gian gần đây, Chính phủ đặc biệt quan tâm đến vấn để chuyển đổi số. Theo đó, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, xác định rõ 3 trụ cột chuyển đổi số đó là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Để thực hiện chuyển đổi số theo quan điểm này, hoạt động lập pháp mà cụ thể là xây dựng luật sẽ đóng vai trò then chốt. Theo đó, chuyển đổi số trong giai đoạn đầu tiên của xây dựng luật là lập đề nghị được hiểu là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của các chủ thể trong giai đoạn này về phương thức làm việc sang môi trường số dựa trên các công nghệ số.
Quy trình lập đề nghị xây dựng luật theo quy định của pháp luật hiện hành
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), quy trình xây dựng luật ở nước ta trải qua hai giai đoạn bao gồm: lập đề nghị xây dựng luật và soạn thảo, thông qua dự thảo luật. Việc đề nghị, kiến nghị xây dựng luật thuộc về các chủ thể như Chính phủ, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận và Đại biểu Quốc hội(1). Theo đó, giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật sẽ được tiến hành như sau:
Đối với quy trình lập đề nghị xây dựng luật do Chính phủ trình
Việc lập đề nghị xây dựng luật do Chính phủ trình(2) bao gồm các bước cơ bản, đó là:
Bước 1: Xây dựng nội dung chính sách. Đây là bước quan trọng nhất trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật. Với công đoạn này chủ thể đề xuất chính sách phải thực hiện các công việc sau: (i) Tổng kết việc thi hành pháp luật; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan; (ii) Tổ chức nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc đã có kế hoạch gia nhập có liên quan đến chính sách; (iii) Xây dựng các giải pháp để thực hiện chính sách và lý do của việc lựa chọn chính sách; (iv) Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc thi để xác định mục tiêu cần đạt được và định hướng để giải quyết từng vấn đề.
Bước 2: Đánh giá tác động của chính sách. Công đoạn đánh giá tác động của chính sách là việc phân tích, dự báo tác động của chính sách đang được xây dựng đối với các nhóm đối tượng khác nhau nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu thực hiện chính sách, bao gồm 06 loại tác động(3).
Bước 3: Lập hồ sơ đề nghị xây dựng luật. Hồ sơ đề nghị xây dựng luật bao gồm các tài liệu được quy định tại Điều 37 của Luật năm 2015.
Bước 4: Lấy ý kiến về đề nghị xây dựng xây dựng luật. Cơ quan lập đề nghị có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan và nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý để hoàn thiện đề nghị xây dựng luật (4).
Bước 5: Thẩm định đề nghị xây dựng luật được thực hiện bởi Bộ Tư pháp. Trường hợp cần thiết, tổ chức họp tư vấn thẩm định hoặc thành lập Hội đồng Tư vấn thẩm định(5).
Bước 6: Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng luật bằng việc ra nghị quyết về đề nghị xây dựng luật với các chính sách đã được thông qua(6).
Bước 7: Thẩm tra đề nghị xây dựng luật bởi Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Hội đồng Dân tộc(7).
Bước 8: Quốc hội xem xét, thông qua nghị quyết về chương trình xây dựng luật hằng năm chính là thông qua từng chính sách trong đề nghị làm cơ sở cho cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện việc quy phạm hóa chính sách một cách có hiệu quả nhất(8).
Đối với quy trình lập đề nghị xây dựng luật không do Chính phủ trình
Quy trình lập đề nghị xây dựng luật do các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình được quy định tại Điều 34 của Luật, về cơ bản cũng tương tự như quy trình đề nghị xây dựng luật do Chính phủ trình. Tuy nhiên, đề nghị, kiến nghị xây dựng luật của các chủ thể này không phải thông qua khâu thẩm định của Bộ Tư pháp. Do đó, việc lập đề nghị xây dựng luật do các cơ quan, tổ chức khác trình sẽ bao gồm các bước: xây dựng nội dung chính sách; đánh giá tác động của chính sách; xây dựng dự thảo hồ sơ lập đề nghị xây dựng luật; lấy ý kiến về đề nghị xây dựng xây dựng luật; xem xét, thông qua đề nghị xây dựng luật(9).
Toàn bộ quy trình lập đề nghị xây dựng luật khi gắn với chuyển đổi số sẽ giúp việc xây dựng luật được triển khai an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số để có khả năng cung cấp thông tin chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, giúp các cơ quan có được hiệu quả cao trong quản lý công việc; đồng thời giảm thiểu thời gian chờ đợi các thủ tục hành chính cho người dân. Bên cạnh đó, còn tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, cả trên thiết bị di động để người dân, doanh nghiệp có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ. Chuyển đổi số trong lập đề nghị xây dựng luật không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà còn mở ra không gian phát triển mới ngoài các giá trị truyền thống vốn có. Do đó, xây dựng luật đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số là điều mà Nhà nước luôn muốn hướng tới nhằm quản lý và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Ảnh minh họa.
Chuyển đổi số với hoạt động lập đề nghị xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay
Ngày 24/11/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1619/QĐ-TTg kiện toàn và đổi tên Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử thành Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. Điều đó cho thấy quyết tâm đổi mới của cả hệ thống chính trị, của những người đứng đầu trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Sau khi nhận ra tầm quan trọng của chuyển đổi số trong hoạt động lập pháp, Việt Nam đã rất kịp thời áp dụng chuyển đổi số vào việc xây dựng các văn bản luật. Vấn đề thực hiện chuyển đổi số trong quy trình xây dựng luật nói chung và giai đoạn lập đề nghị nói riêng hiện nay đang ngày càng được chú trọng và đẩy mạnh. Các cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức thực hiện lập đề nghị xây dựng luật đang tiến hành ứng dụng chuyển đổi số rất mạnh mẽ trong hoạt động của mình thông qua từng bước của quy trình lập đề nghị.
Thứ nhất, ứng dụng chuyển đổi số trong giai đoạn xây dựng chính sách
Yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với quy trình lập đề nghị xây dựng luật ở nước ta là việc nắm bắt đầy đủ, chính xác các mối quan hệ xã hội mới phát sinh, cần nhu cầu điều chỉnh của pháp luật. Chuyển đổi số sẽ góp phần rút ngắn thời gian khi thực hiện các yêu cầu đó trong quá trình xây dựng nội dung chính sách và đánh giá tác động của các chính sách. Gần đây nhất vào ngày 20/6/2022, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã ra mắt Chuyên trang “Xây dựng chính sách, pháp luật” tại địa chỉ https:// xaydungchinhsach.chinhphu.vn gồm các mục về chính sách mới, tham vấn chính sách, tọa đàm về chính sách, chính sách và cuộc sống, lấy ý kiến nhân dân, hướng dẫn thực hiện chính sách Media và tuyên truyền về toàn bộ vòng đời của chính sách, pháp luật. Qua đó, các đối tượng chịu tác động, người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn… sẽ được tiếp cận kịp thời, toàn diện, tổng thể về các chủ trương, chính sách; được tham gia vào quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, phản ánh về các khó khăn, vướng mắc khi thực thi chính sách trong thực tiễn, gửi kiến nghị tới các cơ quan chức năng xem xét, trả lời và tiếp thu theo quy định.
Người dân, doanh nghiệp có điều kiện tốt nhất tiếp cận đầy đủ với các hồ sơ đề nghị xây dựng luật, góp phần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng, thực thi chính sách(10). Dữ liệu thu thập được thông qua ứng dụng công nghệ thông tin sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc đánh giá đầy đủ những bất cập và từ đó đề xuất sửa đổi bổ sung hoặc ban hành văn bản luật mới theo thẩm quyền để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Có thể dễ dàng nhận thấy, chuyển đổi số đã bắt đầu và sẽ thúc đẩy sự cải cách pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, kể cả từ Hiến pháp đến pháp luật hành chính, hình sự, dân sự, thương mại, lao động...(11).
Thứ hai, ứng dụng chuyển đổi số trong giai đoạn lấy ý kiến đối với đề nghị xây dựng luật
Từ năm 2012, Văn phòng Quốc hội đã giới thiệu và ra mắt website “Dự thảo online”, đây là trang thông tin điện tử cập nhật tiến độ về quá trình xây dựng các dự án luật. Có thể nói, đây là một dấu ấn quan trọng trong việc ứng dụng chuyển đổi số nhằm tăng cường sự tham gia của người dân vào giai đoạn cho ý kiến đối với đề nghị xây dựng luật. Ý kiến đóng góp của người dân và chuyên gia đăng tải trên website sẽ được tổng hợp và gửi đến các chủ thể nhằm phục vụ cho việc chỉnh lý và hoàn thiện hồ sơ đề nghị. Từ đó, Chính phủ có thêm một kênh thông tin hai chiều để nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của người dân, để người dân có thể tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng pháp luật. Website còn là một kho dữ liệu phong phú, đầy đủ và chính thống với các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, tạo điều kiện cho họ tham gia ý kiến ngay từ ban đầu khi mà các chính sách được đăng tải(12). Ngoài ra, các phần mềm hiện đại sẽ giúp việc thống kê, đưa ra các số liệu, tỷ lệ phần trăm chính xác, cụ thể về các ý kiến đóng góp, rút ngắn thời gian tập hợp, xử lý số liệu một cách đáng kể. Với việc áp dụng phần mềm hiện đại, những sản phẩm tối tân của công nghệ thông tin hiện nay, các chủ thể có thể tra cứu, nghiên cứu vấn đề mình quan tâm một cách đơn giản ở mọi lúc, mọi nơi với lượng thông tin tra cứu, tham khảo rất nhiều và mở.
Thứ ba, ứng dụng chuyển đổi số trong giai đoạn thẩm định, thẩm tra đề nghị xây dựng luật
Hiện nay, đặt trong bối cảnh vừa trải qua dịch bệnh Covid-19, nhiều cuộc họp thẩm định, thẩm tra đề nghị đã được tổ chức thông qua hình thức trực tuyến, hạn chế sử dụng tài liệu, giấy tờ mà sẽ thông qua các tài liệu điện tử. Hoạt động xử lý tài liệu trực tuyến, trình bày phát biểu số hóa, hay số hóa dữ liệu hoạt động… cũng đạt hiệu quả rất tích cực. Việc trao đổi các văn bản, ý kiến sử dụng công nghệ thông tin giúp thời gian thực hiện giai đoạn này được rút ngắn lại. Đồng thời, việc trao đổi, phản hồi cũng trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn. Đặc biệt, công nghệ thông tin giúp việc điều chỉnh, sửa chữa các nội dung trong hồ sơ đề nghị cũng trở nên chính xác và dễ dàng hơn. Có thể thấy công tác thẩm định, thẩm tra đề nghị xây dựng luật ngày càng được tổ chức theo chiều sâu. Ứng dụng công nghệ chuyển đổi số vào việc thẩm định, thẩm tra đã góp phần bảo đảm tính có căn cứ, tính khoa học, tính cần thiết, tính khả thi, tính phù hợp với thực tiễn, các quy luật khách quan của đề nghị xây dựng luật. Việc cân nhắc, xem xét một cách thận trọng tất cả các ý kiến khác nhau trong quá trình thẩm định, thẩm tra dự án đã làm cho hoạt động này ngày càng phong phú, khoa học, chặt chẽ và toàn diện hơn. Trên thực tế, chuyển đổi số đã được ứng dụng rất hiệu quả trong giai đoạn này của hoạt động lập đề nghị(13).
Thứ tư, ứng dụng chuyển đổi số khi Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với đề nghị xây dựng luật
Trước tiên phải khẳng định Quốc hội là một trong những cơ quan được đánh giá là áp dụng công nghệ thông tin trong chuyển đổi số sớm nhất và hiệu quả nhất trong các cơ quan nhà nước. Việc xem xét, thông qua chương trình xây dựng luật của Quốc hội gắn liền với công nghệ thông tin trong những năm gần đây được cho thấy rất thường xuyên và triển khai khá sâu rộng đến từng đại biểu Quốc hội. Từ Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV cho tới nay, Quốc hội đã đẩy mạnh việc đưa ứng dụng, cung cấp thông tin về đề nghị xây dựng luật cho đại biểu thông qua các thiết bị di động. Việc xây dựng ứng dụng này đã giúp cho các đại biểu Quốc hội và tạo nên “Quốc hội không giấy”. Đây thật sự là một giải pháp vừa tiết kiệm cho đại biểu Quốc hội và Quốc hội trong hoạt động, giảm việc in ấn cũng như vận chuyển tài liệu, giấy tờ, việc phát hành mang lại hiệu quả cao(14). Song song với đó, ứng dụng chuyển đổi số là một công cụ hỗ trợ đắc lực giúp cho tổ chức, cá nhân, cơ quan, đơn vị tham gia vào hoạt động lập pháp, cụ thể là các thành viên của Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể giải quyết được nhiều công việc hơn trong một khoảng thời gian nhất định.
Tóm lại, hiện nay hoạt động chuyển đổi số trong quy trình lập đề nghị đã được vận dụng tương đối tốt, cho thấy rõ hiệu quả tích cực. Đây có thể được coi là một bước tiến trong chuyển đổi số của Quốc hội và Chính phủ khi thay đổi được quy trình vận hành mới, thay đổi được mô hình hoạt động mới để cung cấp các dịch vụ mới hoặc là cung cấp các dịch vụ đã có nhưng theo cách mới. Bởi vì ứng dụng công nghệ thông tin chỉ là tối ưu hóa quy trình đã có, liên quan đến chuyển đổi số là chúng ta bắt buộc phải thay đổi phương thức hoạt động, cách thức tiếp cận. Có thể cho rằng hoạt động lập đề nghị xây dựng luật đã đặt được một bước chân vào tiến trình của chuyển đổi số.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vấn đề chuyển đổi số trong lập đề nghị xây dựng luật hiện vẫn đang còn nhiều thách thức như khung pháp lý cho chuyển đổi số vẫn còn đang hoàn thiện; cơ sở dữ liệu điện tử vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu; các công việc tiến hành trong quá trình lập đề nghị đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ thông tin. Mặt khác, việc ứng dụng công nghệ số trong khi xây dựng chính sách vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là nguyên nhân về kỹ thuật. Hạ tầng công nghệ thông tin của chúng ta đang hạn chế, mặc dù những năm gần đây cũng được quan tâm cải thiện, nâng cấp nhưng còn nhiều thiết bị lạc hậu. Đầu tư về công nghệ thông tin cho hoạt động lập đề nghị còn chưa tương xứng. Dù triển khai các ứng dụng phần mềm, nhưng cơ sở dữ liệu đang còn riêng lẻ chưa thành kho dữ liệu chung, chưa đồng bộ với nhau, do đó, khi sử dụng còn khó khăn. Mặt khác, do nguyên nhân về phía nguồn lực con người như trình độ chuyên môn liên quan đến chuyển đổi số vẫn chưa được chú trọng, nhận thức của các cấp, các ngành chưa cao đối với tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động. Đội ngũ cán bộ, công chức sử dụng trong hệ thống công nghệ số chưa đồng đều với nhau về trình độ. Do đó, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, rất cần phải tiếp tục tập trung nghiên cứu những giải pháp nhằm ứng dụng chuyển đổi số phục vụ hoạt động lập đề nghị xây dựng luật ở nước ta hiện nay.
Giải pháp thúc đẩy ứng dụng chuyển đổi số trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay
Nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động lập đề nghị xây dựng luật đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành xã hội, thực thi công vụ theo hướng khuyến khích, sẵn sàng ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ, mô hình mới trong quá trình chuyển đổi số. Tổ chức triển khai hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chương trình chuyển đổi số quốc gia và các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược phát triển trong hoạt động xây dựng các đạo luật nói chung và trong giai đoạn lập đề nghị nói riêng.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nhằm hoàn thiện khung pháp lý về quy trình lập đề nghị xây dựng luật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Thứ ba, tích cực nghiên cứu và đưa vào thực hiện một số giải pháp về ứng dụng công nghệ số như tích hợp nền tảng trí tuệ nhân tạo với trợ lý ảo AI để hỗ trợ công tác xây dựng chính sách hay lấy ý kiến dự thảo đề nghị. Nâng cấp, hoàn thiện trung tâm dữ liệu, mạng truyền số liệu chuyên dùng, hệ thống phần mềm dùng chung, kho dữ liệu dùng chung hỗ trợ các công đoạn trong hoạt động lập đề nghị. Khẩn trương số hóa dữ liệu phục vụ hoạt động quản lý, điều hành công việc của các cơ quan nhà nước bảo đảm tập trung, thông suốt trên môi trường số. Thực hiện đồng bộ việc luân chuyển các văn bản liên quan đến quy trình xây dựng chính sách trên môi trường mạng thông qua hệ thống các trang/cổng thông tin điện tử; ứng dụng chứng thực số, chữ ký số để thực hiện các giao dịch; đầu tư xây dựng hệ thống dữ liệu lớn (Big data) đủ đáp ứng công tác đồng bộ số hóa dữ liệu trong các hoạt động của các chủ thể, nhằm bảo đảm đầy đủ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tập trung hoàn thiện các dịch vụ lấy ý kiến trực tuyến; tăng cường ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động lấy ý kiến đóng góp.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số bằng cách chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng số cho đội ngũ làm công tác lập đề nghị xây dựng luật. Nên có nền tảng đào tạo trực tuyến dành riêng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ này nhằm giúp nâng cao năng lực của họ. Bên cạnh đó, cần tăng cường xây dựng đội ngũ chuyên gia để kịp thời theo dõi, phòng ngừa, ngăn chặn, phối hợp xử lý, khắc phục các sự cố về an toàn, an ninh mạng và tội phạm sử dụng công nghệ cao liên quan đến hoạt động lập đề nghị.
Thứ năm, đầu tư trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật để chủ động phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ, tác động tiêu cực của quá trình chuyển đổi số. Có chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính…, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hạ tầng số, các sản phẩm, dịch vụ, mô hình mới dựa trên công nghệ số phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, nên tăng cường tổ chức các hội thảo, hội nghị về chuyển đổi số nhằm trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số; đồng thời, hợp tác với các tổ chức nghiên cứu trong nước, nước ngoài để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong lập đề nghị xây dựng luật.
Hoạt động chuyển đổi số có tác động không nhỏ đến quy trình xây dựng luật nói chung và giai đoạn lập đề nghị xây dựng luật nói riêng. Quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện trong giai đoạn này về phương thức làm việc sang môi trường số dựa trên các công nghệ số sẽ giúp ích rất nhiều cho các chủ thể quản lý nhà nước khi xây dựng pháp luật trong thời đại cuộc cách mạng 4.0. Mong rằng trong tương lai, hoạt động lập đề nghị xây dựng luật sẽ được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm và chú trọng hơn nữa, nhằm góp phần sớm đưa toàn bộ hệ thống pháp luật gắn liền với “Chương trình chuyển đổi số Quốc gia” đi vào thực tế.
(1) Xem Điều 32, Điều 33 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). (2) Xem Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020); Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL; Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 34/2016/ NĐ-CP của Chính phủ. (3) Điều 6 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. (4) Điều 36 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và Điều 10 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. (5) Điểm c khoản 1 Điều 13 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. (6) Xem Điều 41 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2020). (7) Xem Điều 47 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2020). (8) Xem Điều 48 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2020). (9) Xem Điều 44 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2020). (10) https://baochinhphu.vn/cong-ttdt-chinh-phu-ra-mat-chuyen-trang-xay-dung-chinh-sach-phap-luat-102220619161010687.htm (11) https://cspl.mic.gov.vn/Pages/TinTuc/tinchitiet.aspx?tintucid=138236 (12) Xem: https://daibieunhandan.vn/Cong-nghe/Toa-dam-Chuyen-doi-so-va-cac-hinh-thuc-hoat-dong-truc-tuyen-cac-co- quan-cua-Quoc-hoi-dai-bieu-Quoc-hoi-i277263/ (13) Xem https://thanhtravietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/hieu-qua-cua-ung-dung-cong-nghe-thong-tin-trong-hoat-dong-lap- phap-199411.html (14) Xem: https://daibieunhandan.vn/Cong-nghe/Toa-dam-Chuyen-doi-so-va-cac-hinh-thuc-hoat-dong-truc-tuyen-cac-co- quan-cua-Quoc-hoi-dai-bieu-Quoc-hoi-i277263/ |
Thạc sĩ NGÔ TUYẾT MAI
Trường Đại học Luật Hà Nội