LSVNO - Thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên của đại dương. Các quốc gia có biển và không có biển đều xác định chiến lược “vươn ra biển”. Đó không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là vấn đề chiến lược mang tính sống còn của các quốc gia, dân tộc. Bởi, nếu để mất biển là mất lợi thế, là tự làm suy yếu không chỉ chính trị, quân sự mà cả yết hầu kinh tế.
Với hơn 3.200 km bờ biển và diện tích biển rộng hơn 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền, Việt Nam luôn được coi là quốc gia có thế mạnh về biển. Mới đây, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XII cũng đã thông qua nội dung cơ bản Nghị quyết mới về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Việt Nam nước ta, biển - đảo không chỉ là bộ phận cấu thành chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là không gian sinh tồn và phát triển của các thế hệ người Việt Nam. Các vùng biển nước ta từ hàng ngàn năm nay có vị trí địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế quan trọng trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết 09 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Từ nay đến hết năm 2019, đầu năm 2020, trên cả nước, đặc biệt là các địa phương ven biển, đảo sẽ tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 09, rút ra các bài học làm được và chưa làm được; những thành công và tồn tại, yếu kém… Từ đó, giúp cho việc định ra các quyết sách mạnh mẽ, hữu hiệu, tổ chức thành công việc thực hiện Nghị quyết mới của Đảng về “Chiến lược phát triển kinh tế biển” trong giai đoạn tới.
Nghị quyết mới về “Chiến lược kinh tế biển” chỉ rõ mục tiêu cơ bản về phát triển bền vững kinh tế biển: Đến năm 2030, đóng góp của các ngành kinh tế thuần biển chiếm khoảng 10% GDP cả nước, đóng góp GRDP của các tỉnh thành phố ven biển chiếm 65-70% GDP cả nước; kiểm soát chặt chẽ, ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển, nhất là chất thải nhựa đại dương; bảo đảm cân bằng sinh thái, hài hòa các mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển; liên kết và hỗ trợ giữa các vùng nội địa đất liền, vùng ven biển và hải đảo, đại dương.
Biển và giàu lên từ biển chắc chắn là một quá trình để đạt đến những mục tiêu cụ thể.
Mạnh về biển và giàu lên từ biển chắc chắn là một quá trình để đạt đến những mục tiêu cụ thể, các tiêu chí được lấy làm thước đo của sự phát triển, bao hàm cả kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng. Không thể nói một cách tuyệt đối rằng đến một thời điểm nào đó trong thập kỷ tới, thậm chí lâu hơn, thì mục tiêu này được hoàn thành đầy đủ, nước ta đã được xác định “Mạnh về biển và giàu lên từ biển”. Quan trọng hơn là, với việc hoàn thành từng nhóm mục tiêu và tiêu chí đề ra cho 10 năm sau năm 2020 và cho mỗi kỳ kế hoạch 5 năm xét về những thành quả và tiềm lực kinh tế có được, những tiến bộ về quản lý biển và sự phát triển của khoa học công nghệ để nhìn thấy những mốc quan trọng cần đạt được trong quá trình này.
Bên cạnh đó, nghị quyết mới nêu rõ quan điểm, chương trình hành động về chủ quyền biển - đảo, theo đó kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc trên các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên các vùng biển, đảo để phát triển bền vững nền kinh tế của đất nước.
Theo PGS.TS. Vũ Sĩ Tuấn (Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường), nhấn mạnh tới vai trò của quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo, do tài nguyên biển và hải đảo chủ yếu đang được quản lý theo ngành, lĩnh vực nên việc khai thác, sử dụng chưa dựa trên việc phân tích các chức năng của mỗi vùng biển một cách tổng thể; còn thiếu sự gắn kết, hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển trên cùng một vùng biển. Mặt khác, các hoạt động trên biển có mối liên hệ, tác động nhất định đến nhau, với tính chất liên thông của biển thì trong một số trường hợp, quản lý theo ngành, lĩnh vực với đặc điểm luôn tối đa hóa lợi ích của ngành, lĩnh vực mình mà không xem xét vấn đề khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo một cách tổng thể đã làm hạn chế sự phát triển chung, thiếu sự hài hòa lợi ích của các ngành, lĩnh vực, làm suy thoái nhiều loại tài nguyên, nhất là tài nguyên tái tạo; tình trạng ô nhiễm môi trường biển, hải đảo có chiều hướng gia tăng; nhiều hệ sinh thái biển và hải đảo quan trọng đã bị tổn thương nghiêm trọng; dẫn tới sự nghèo nàn của nguồn lợi thủy sản.
Dấu ấn của những hoạch định phát triển kinh tế trọng điểm, mũi nhọn cho từng vùng biển Việt Nam hôm nay luôn là bài học gắn liền với việc xây dựng cơ chế chính sách, quản lý… để có những giải pháp đột phá, những định hướng căn cơ, sáng tạo hơn, tạo đà cho sự nghiệp phát triển bền vững nền kinh tế biển xanh.
Còn theo bà Đào Thị Bích Thủy – Giảng viên Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, đánh giá Việt Nam có khoảng 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch. Ngoài ra, Việt Nam còn có các khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận và hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên ven biển đa dạng. Các vùng ven biển cũng được thừa hưởng các di tích lịch sử văn hóa phong phú. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đảo, du lịch sinh thái, thể thao và mạo hiểm.
Minh Sơn – Tuấn Hải