Tản mạn về Mèo: Mèo ở Việt Nam

27/01/2023 06:10 | 1 năm trước

(LSVN) - Ở Việt Nam, mèo khá phong phú về chủng loại và được gọi bằng nhiều tên: Mèo, miu, miêu, mão… Với mỗi loài, lại được mỗi địa phương, mỗi sắc dân dùng một vài tên gọi đặc trưng - ví dụ mèo rừng (Việt) gọi là cáo khua (Mường), tu hen meo (Thái), tu hin meo (Tày)…

Ảnh minh họa.

Mèo rừng Việt Nam gồm 4 loài. Phổ biến nhất là mèo rừng thường (Felis bengalensis), sống khắp vùng rừng núi và trung du, thân dài chừng 40-60 cm, nặng khoảng 3-5 kg, lông vàng trắng điểm những vệt và đốm đen nâu. Ba loài kia quý hiếm hơn nhiều, đều có tên trong sách đỏ: Mèo ri (hay mèo núi, mèo rừng Á - Felis chaus), mèo gấm (Felis marmorata) và mèo cá (hay mèo đuôi ngắn - Felis viverrina).

Mèo nhà Việt Nam có 3 loài cơ bản. Nhỏ nhất và được nuôi dưỡng nhiều nhất là mèo mướp, nặng 2,2-2,5 kg, lông xám hoặc vàng xám với vằn nhạt. Mèo vàng cỡ trung bình (khoảng 3-4 kg), lông vàng hoặc nhị thể trắng-vàng. Mèo Xiêm lớn hơn (cỡ 3,5-5,5 kg), lông nâu nhạt, phớt xám tro hoặc lang trắng-đen. Mèo đen, tam thể, tứ thể… là dạng lai của 3 loài trên.

Con mèo là đối tượng vừa đặc biệt, vừa phổ biến trong cuộc sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam. Nhân dân ta biết nuôi mèo từ rất sớm (khoảng vài trăm năm trước Công nguyên) và sử dụng nó vào nhiều mục đích khác nhau: kinh tế, văn hóa, giải trí, tôn giáo… Mèo sống gần gũi, rất được quan tâm và quý mến. Tên gọi các bộ phận cơ thể mèo được gắn liền với những sự vật, hiện tượng tương tự (đá tai mèo, cây đuôi mèo, tóc râu mèo…). Tập tính của mèo cũng được dùng để thể hiện những sinh hoạt đặc thù của người (ngủ mèo, tắm mèo, trò mèo…). Võ mèo (miêu quyền) là một trong các môn võ hay, các động tác mô phỏng của mèo có thể chuyển hóa, linh biến thành các bài võ, đòn thế tấn công hoặc tự vệ hiệu quả (nổi tiếng nhất là bài võ mèo rửa mặt (miêu tẩy diện) với sự phối kết hợp của 32 động tác).

Hình ảnh con mèo đi sâu vào nền văn hóa dân gian nước ta với những biểu hiện, những hình thức phong phú và đặc sắc. Theo thống kê, người Việt Nam (bao gồm 54 dân tộc) có đến hàng ngàn câu ngạn ngữ, phương ngữ, thành ngữ, tục ngữ và ca dao, dân ca liên quan tới mèo. Thông dụng và tiêu biểu là các câu: Bắt mèo ăn gừng, chả biết mèo nào cắn mỉu nào, chó treo mèo đậy, chuột sa cũi mèo, gửi mỡ miệng mèo, hát như mèo (cái) gào đực, mèo bị bỏng sợ cả nước lạnh, mèo già hóa cáo, sợ xanh mắt mèo và Con mèo con mẻo con meo/muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà, Mèo hoang lại gặp chó hoang/anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai, Chồng người đi ngược về xuôi/chồng tôi ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Và bài đồng dao hài hước mà sâu cay, trẻ già đều nhớ: Con mèo mà trèo cây cau/Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/Chú chuột đi chợ đàng xa/Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo! Mèo theo vào nhiều bài hát, đặc biệt những bài hát dành cho thiếu niên nhi đồng (Chú mèo con, Như mèo rửa mặt, Mèo đuổi chuột, Thương con mèo…).

Mèo là đề tài trung tâm của hàng trăm truyện cổ tích, ngụ ngôn, huyền thoại, giai thoại - phổ biến và điển hình là các tác phẩm Sự tích Mèo và Chuột, Mèo lại hoàn mèo, Mèo dạy Hổ, Mèo và Chuột già, Mèo ăn chay, Con mèo tinh khôn. Mèo còn gợi nguồn cảm hứng nồng nàn, độc đáo, sáng tạo cho nhiều nhà văn và thi sĩ. Về văn xuôi, nổi bật có những truyện ngắn Con mèo (của Nam Cao), Chó mèo hoang (Xuân Diệu), Lại chuyện con mèo (Nguyễn Công Hoan), Mắt mèo (Sơn Trần), Mèo đêm (Thụy Vũ), Súng và mèo (Quế Hương) và các tiểu thuyết Khởi đầu là mèo (Tô Hải Vân), Vua Mèo (Đào Hiếu). Về thơ ca, ấn tượng có các bài từ xưa như Miêu của Nguyễn Trãi, Vịnh mèo của Trần Tuấn Khải, Con mèo của Tú Mỡ đến nay như Mèo con đi học của Phan Thị Vàng Anh (Hôm nay trời nắng chang chang/Mèo con đi học chẳng mang thứ gì/Chỉ mang một chiếc bút chì/Và mang một mẩu bánh mì con con), Đêm tối trời của Đoàn Mạnh Phương (Chuột đuổi nhau trên căn gác cũ/Mắt mèo hoang lấp lánh như sao/Gió như muốn gọi nhau thành bão/Chém vào đêm những nhát ngọt ngào), Nhớ ngày mai của Hoàng Nhuận Cầm (Ta đã đi như mèo trên phố vắng/Gọi tên con như gọi các thiên thần/Có một nốt chưa bao giờ con biết/Là nốt buồn cha đã nuốt thay con).

Mèo (mão, miêu) hiện diện trong nhiều loại địa danh đồi núi, sông hồ, bến đảo, ga chợ… trên khắp mọi miền đất nước, suốt dọc từ Bắc vào Nam tiêu biểu có: làng Mèo Ván và huyện Mèo Vạc (Hà Giang), xã Hồng Thu Mèo (Lai Châu), chợ Suối Mèo (Sơn La), thôn Mèo (Bắc Kạn), làng Mão Điền (Bắc Ninh), hồ Mèo Gù (Hà Nội), đồi Mèo (Hòa Bình), núi Mèo Cào (Ninh Bình), cửa khẩu Na Mèo và chùa Mèo (Thanh Hóa), dốc Mèo (Thừa Thiên-Huế), mỏ vàng Bồng Miêu (Quảng Nam), suối Mèo (Khánh Hòa), chợ Mèo (Ninh Thuận), đồi cát Mèo Vàng (Bình Thuận), bến phà Rạch Mèo (Kiên Giang)… Mèo được lấy làm tên cho nhiều loài động vật: Bọ mèo (bọ chét mèo), bướm mèo, cá mèo, cú mèo, gấu mèo (gấu trúc), gấu mèo đỏ, lợn mèo (lợn mẹo), rắn hổ mèo, rận mèo, sâu róm mèo… Mèo còn được dùng làm thực phẩm và dược liệu, nên tên của nó được đặt cho nhiều loài thực vật - nhất là những cây trồng để ăn, làm cảnh và chế thuốc: Chàm mèo, cây gai mèo (lanh mèo), cây lưỡi mèo, cây mắt mèo gai (cây cò cưa), cây móc mèo, cây tai mèo (cây bông vang), cây râu mèo, cỏ lưỡi mèo (cỏ chỉ thiên), đậu mèo, lúa mèo (củ niễng), nấm tai mèo (mộc nhĩ), táo mèo…

Mèo cũng là đối tượng nghệ thuật hấp dẫn thể hiện trên các vật dụng sinh hoạt thường ngày, nhà cửa, nơi thờ tự… Tiêu biểu nhất phải kể đến bức chạm Mèo và cá, tôm trên bia đá chùa Linh Quang (Hải Phòng) và bức chạm Mèo ngoạm cá trên kèo gỗ sát mái đình Đại Phùng (Hà Nội), hay những tượng thờ linh miêu rải rác ở các địa phương miền núi. Hội họa dân gian Việt Nam - qua dòng tranh Hàng Trống và Đông Hồ - cũng dành cho đề tài mèo sự ưu ái, với những tác phẩm nổi tiếng: Con mèo, Đám cưới chuột, Cậu bé ôm mèo, Tình anh em. Nhiều họa sĩ hiện đại có sở trường, mê thích hoặc chuyên vẽ về mèo, tiêu biểu phải kể đến các danh họa Lê Bá Đảng, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Cường, Đào Hải Phong… Mèo còn nhập hệ lịch can chi 12 con vật, là biểu tượng chi Mão với những ý nghĩa triết lý-nhân văn sâu sắc. Tháng con mèo là tháng Hai âm lịch, chính giữa xuân, cây cối tươi tốt nhất, con người cũng dồi dào sinh lực nhất và tương quan trời - đất đạt đến độ hài hòa tối đa.

Người Việt Nam sớm biết khai thác triệt để, sáng tạo những giá trị kinh tế và thực tiễn của mèo. Ngoài tác dụng bắt chuột, làm cảnh, mèo còn cho bộ da lông bền đẹp và thịt ngon bổ. Theo y học cổ truyền, thịt mèo được gọi là “miêu nhục”, có tính ấm, vị ngọt, hơi chua, không độc, dùng đặc trị chóng mặt, xanh da, mụn nhọt, lao phổi, chướng bụng, loét dạ dày, gan và thận hư, trĩ mãn tính. Dạ dày mèo là vị thuốc quý, chữa nhiều bệnh tiêu hóa và suy nhược. Mật mèo chế thành thuốc trị đau mắt. Gan mèo phơi khô, tán bột, uống với rượu nhạt vào lúc đói chữa được hư lao. Phổi mèo băm nhỏ, trộn với vài vị thuốc thực vật rồi đem nướng hoặc hấp chín, ăn chữa hen suyễn. Xương mèo đem nấu cao, dân một số nơi ngâm trực tiếp vào rượu mạnh, dùng tăng sinh lực, trị tê thấp, sưng nhức, cảm lạnh, ho đờm… Ngay cả phân mèo (“miêu phẩn”) đã sao khô trở thành thuốc trị chứng sởi, đậu ở trẻ em hoặc bọc bằng đất sét rồi nướng trên than hồng, nghiền thành bột, trộn với đường cát, ăn chữa lao, kiết lỵ. Còn khi bị con đỉa hoặc sâu bọ chui vào tai, lấy nước tiểu mèo (“miêu niệu”) rỏ vào, chúng sẽ phải bò ra ngoài! Trong phẫu thuật, vết mổ được khâu bằng chỉ chế từ ruột mèo. Ruột mèo phơi khô cũng là nguyên liệu lý tưởng để làm dây cung nỏ - vũ khí cổ truyền của người Việt Nam; hoặc dây cuaroa, dây bảo hiểm - trong các máy móc, công nghệ hiện đại.

Những thập niên gần đây, do bị xuất khẩu lậu bừa bãi sang Trung Quốc và các quán đặc sản thịt mèo (tiểu hổ) mọc lên khắp nơi, số lượng mèo nước ta giảm sút nghiêm trọng, gây mất cân bằng sinh thái và nạn chuột trở lại hoành hành. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ từng phải ra Chỉ thị áp dụng khẩn cấp các biện pháp bảo vệ mèo và khuyến khích nuôi mèo (Chỉ thị số 09/1998/CT-TTg)… Trong tương lai, chúng ta cần nhìn nhận đúng đắn hơn giá trị, hành động thiết thực hơn để cứu vãn, khôi phục và phát triển loài vật rất gần gũi, hữu ích này.

ANH HÙNG

Tản mạn về Mèo: Nguồn gốc và chủng loại mèo

Từ khoá : lsvn.vn LSVN