Ảnh minh họa.
Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, TAND tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự. Chính vì vậy, tại Công văn 02/TANDTC-PC, TAND tối cao đã giải đáp một số vướng mắc trong xét xử. Trong đó, nổi bật là việc có được hưởng án treo khi đồng phạm phạm tội có tính chất côn đồ không; xác định người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên.
Có được hưởng án treo khi đồng phạm phạm tội có tính chất côn đồ?
Nếu vụ án hình sự có đồng phạm bị tòa áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội có tính chất côn đồ thì đồng phạm khác là người phạm tội có vai trò không đáng kể có được cho hưởng án treo không?
Về vấn đề này, TAND tối cao giải đáp, theo khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 về án treo thì người phạm tội là người côn đồ thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Tuy nhiên, đối với vụ án có đồng phạm, khi xét xử tòa án phải xem xét, đánh giá tính chất, vai trò, hành vi phạm tội của từng đồng phạm để xác định có thuộc trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ hay không.
Một tình huống được đặt ra: Do có mâu thuẫn nên P, L đánh nhau với Y. Y dùng dao lam gây thương tích cho P 14%, L 44%. Vậy Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hai điểm c, d khoản 3 hay chỉ theo điểm c hoặc điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác?
TAND Tối cao cho rằng trường hợp này, Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017). Ngoài ra, Y còn gây thương tích cho P 14% nên khi lượng hình cần xem xét cả hậu quả này.
Xác định người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên
Một câu hỏi khác là trường hợp bị cáo phạm tội lúc chưa đủ 70 tuổi, tại thời điểm xét xử, bị cáo đã trên 70 tuổi thì có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” theo điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 hay không.
TAND Tối cao giải đáp, quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 không phân biệt người phạm tội là người đã đủ 70 tuổi tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, trường hợp khi phạm tội bị cáo chưa đủ 70 tuổi nhưng khi xét xử họ đã đủ 70 tuổi thì tòa vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” đối với họ.
Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, các tòa thường gặp tình huống người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm hoặc có hành vi khác để chứa chấp người nghiện ma túy cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Vậy hành vi này có bị xử lý về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 256 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 hay không?
Về vấn đề này, TAND Tối cao giải đáp, quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 không loại trừ việc xử lý hình sự đối với người nghiện ma túy có hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Cho nên đối với trường hợp người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm để cùng sử dụng ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì bị xử lý về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 256 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm).
NGỌC ANH
Hướng dẫn đóng BHXH tự nguyện, gia hạn thẻ BHYT theo hộ gia đình trên Cổng DVC Quốc gia