1. Căn cứ pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc bầu cử đại biểu dân cử
Những căn cứ pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động bầu cử đại biểu dân cử chủ yếu là các quy định của Hiến pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (ĐBHĐND), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó, quy định của Hiến pháp là căn cứ quan trọng hàng đầu. Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, “Đảng Cộng sản Việt Nam... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Khi lãnh đạo Nhà nước thì Đảng phải lãnh đạo ngay từ việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân (khoản 1 Điều 2). Việc hình thành bộ máy nhà nước mỗi khóa bao giờ cũng bắt đầu từ kết quả bầu cử đại biểu dân cử theo tinh thần: Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đảng phải lãnh đạo thấu suốt cả quá trình bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” [1] nhằm đạt tới mục đích cao nhất là bầu ra được những người xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân; xứng đáng là thành viên của “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nếu là ĐBQH; và xứng đáng là thành viên của “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương” nếu là đại biểu HĐND.
Về thực tiễn, một trong tám bài học kinh nghiệm quan trọng của cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 mà Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 (Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG) đã chỉ ra là: “Sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng đối với công tác chuẩn bị bầu cử là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cuộc bầu cử. Nơi nào có sự chuẩn bị chu đáo sát sao, thống nhất; các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng được phổ biến, quán triệt đầy đủ nơi đó công tác bầu cử được chuẩn bị chu đáo, triển khai công việc kịp thời, phối hợp chặt chẽ, kết quả đạt cao” [2]. Kinh nghiệm này, một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là tối quan trọng, là yêu cầu tất yếu của một Đảng cầm quyền trong các cuộc bầu cử đại biểu dân cử.
2. Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình tổ chức bầu cử
Theo quy trình một cuộc bầu cử, từ khi công bố ngày bầu cử cho đến khi tổng kết cuộc bầu cử, có thể chia ra hơn 40 công đoạn. Công đoạn nào cũng yêu cầu, cũng đòi hỏi phải có sự lãnh đạo sát sao của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trong các cuộc bầu cử có thể chia làm hai dạng: ở cấp cao, nhất là ở Trung ương chủ yếu là lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối và cơ chế, chính sách; ở các cấp, nhất là ở cơ sở như Ban bầu cử, Tổ bầu cử thì các thành viên vừa phải quán triệt chủ trương, đường lối, thấm nhuần chính sách, cơ chế, vừa phải tác nghiệp cụ thể trong công việc. Dưới đây là 04 công đoạn then chốt mà các cấp ủy Đảng phải tập trung lãnh đạo thường xuyên, liên tục, sát sao nhất.
2.1. Dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND
Về số lượng đại biểu dân cử, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 đã xác định: ĐQBQH là 500 người, đại biểu HĐND các cấp được tính theo dân số và các yếu tố cụ thể của mỗi địa phương. Nhìn chung, số lượng đại biểu dân cử mỗi khóa không nhiều, như kết quả bầu cử và được xác nhận đủ tư cách đại biểu nhiệm kỳ 2016-2021 là 321.886 đại biểu, gồm 494 ĐBQH và 321.392 đại biểu HĐND các cấp; tỷ lệ đại biểu trên tổng số cử tri chỉ khoảng 0,44% và khoảng 0,33% so với tổng dân số ở thời điểm bầu cử [3]. Trong khi đó số cơ quan, tổ chức, đơn vị được phân bổ người ứng cử tương đối nhiều. Đối với ĐBQH, các đơn vị được phân bổ gồm: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện còn thêm các đơn vị hành chính cấp dưới, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn. Đối với đại biểu HĐND cấp xã còn thêm thôn (làng, bản, ấp), tổ dân phố.
Với số lượng đại biểu dân cử hạn hẹp, trong khi trên thực tế các đơn vị để phân bổ tương đối nhiều thì việc phân bổ cho đơn vị nào, số lượng bao nhiêu, đòi hỏi một sự lãnh đạo rất cụ thể. Có ít nhất ba vấn đề phải đặc biệt chú ý trong quá trình lãnh đạo:
Một là, tổ chức Đảng ở Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), ở Thường trực HĐND các cấp phải lãnh đạo để xác định chính xác những cơ quan, tổ chức, đơn vị cần được phân bổ người ứng cử và số lượng người được phân bổ cho mỗi đơn vị. Đây là một việc rất khó và cũng là một tồn tại qua nhiều lần bầu cử. Do đó, Hội đồng bầu cử quốc gia và UBTVQH cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ cho việc phân bổ, nhất là đối với cơ quan, tổ chức đơn vị thuộc hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên).
Hai là, lãnh đạo việc nghiên cứu cơ cấu, thành phần hợp lý nhất để phân bổ người ứng cử, tránh tình trạng thừa cơ cấu, thiếu thành phần hoặc thành phần không hợp lý, dẫn đến sai lệch cơ cấu.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng để bảo đảm được các cơ cấu cơ bản, nhất là cơ cấu nữ và cơ cấu dân tộc. Về cơ cấu nữ, theo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015, phải có ít nhất 35% số người được giới thiệu là nữ. Muốn vậy phải giới thiệu ít nhất được 40%, để nếu có bị loại vẫn bảo đảm con số 35%. Tuy nhiên, vấn đề là chất lượng người được giới thiệu làm ứng cử viên, vì vậy, ngay từ đầu đã phải quan tâm đúng mức tới chất lượng người được giới thiệu ứng cử.
Về số lượng và tỷ lệ đại biểu là người dân tộc trong cơ quan dân cử: Đối với Quốc hội (mang tính toàn quốc), Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND quy định ít nhất là 18%, tỷ lệ này nhìn chung là đạt được. Tuy nhiên, không vì thế mà chủ quan, lơ là trong lãnh đạo, chỉ đạo; ngược lại, phải hết sức chú ý lãnh đạo, chỉ đạo tìm người đủ tiêu chuẩn ở một số dân tộc mà nhiều khóa Quốc hội vừa qua chưa có ĐBQH; tìm người xứng đáng nhất trong các dân tộc có số dân đông hơn để giới thiệu. Đối với HĐND (mang tính chất địa phương; có tỉnh, có huyện, có xã không có người dân tộc thiểu số; những tỉnh, huyện, xã có người dân tộc thiểu số thì số lượng và tỷ lệ cũng rất khác nhau) vì thế, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 không quy định tỷ lệ chung. Bởi vậy, cấp ủy Đảng ở từng địa phương phải lãnh đạo sát sao, bám thực tế, chỉ đạo cụ thể để việc giới thiệu đạt được các tỷ lệ hợp lý, mang tính đại diện cao giữa các dân tộc trên từng địa bàn.
Công đoạn dự kiến cơ cấu, thành phần những người được giới thiệu ứng cử đại biểu dân cử là công đoạn nghiệp vụ đầu tiên, và nó sẽ chi phối tất cả các công đoạn tiếp theo. Do đó, nếu không bảo đảm tính hợp lý, chính xác ngay từ đầu sẽ gây khó khăn cho tất cả các công đoạn tiếp theo.
2.2. Lãnh đạo hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử
Về lý thuyết, nếu ở công đoạn dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng được thực hiện tốt (chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phần hợp lý) thì đến công đoạn hiệp thương và các công đoạn tiếp theo sẽ “nhẹ nhàng”, đỡ vất vả hơn. Nhưng trên thực tế các cuộc bầu cử gần đây cho thấy, công đoạn hiệp thương khá phức tạp. Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG nhận định: “Một số cơ cấu, số lượng phân bổ đại biểu chưa được như định hướng, dự kiến ban đầu, nhất là tỷ lệ nữ, tỷ lệ người ngoài đảng; nhiều người do Trung ương giới thiệu không trúng cử ở một số tỉnh, thành phố... Việc đưa ra khỏi danh sách một số ứng cử viên tự ứng cử ĐBQH trong hiệp thương lần thứ ba mà được cử tri nơi cư trú, cử tri ở cơ quan tín nhiệm chưa hoàn toàn được dư luận đồng tình” [4].
Như đã trình bày, số lượng các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương cũng như ở địa phương là rất lớn, trong khi số lượng đại biểu dân cử lại không nhiều, nên hiệp thương để chuẩn xác lại cơ cấu, thành phần cho hợp lý là công việc tất yếu, phải tiến hành nhiều lần (theo Luật Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015 là 3 lần).
Đối với hiệp thương giới thiệu người ứng cử ĐBQH cần lưu ý:
Một là, cơ cấu số lượng và tỷ lệ giữa đại biểu ở Trung ương và đại biểu ở địa phương. Ở nhiều khóa thường cơ cấu 1/3 đại biểu ở Trung ương và 2/3 đại biểu ở địa phương. Tuy nhiên, đang có xu hướng tăng đại biểu ở Trung ương (từ khóa XI đến khóa XIV lần lượt là 30,92%; 31,03%; 33,4% và 36,04%) [5], cũng có nghĩa là giảm số lượng và tỷ lệ đại biểu ở địa phương. Theo chúng tôi, giữ ở mức 30% và 70% như nhiều khóa trước đây là hợp lý. Muốn vậy, phải thống nhất cao và có sự lãnh đạo sát sao, chỉ đạo cụ thể của Đảng đoàn Quốc hội, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cấp ủy ngành, địa phương.
Hai là, cơ cấu đại biểu nữ: Đã có một số khóa tỷ lệ đại biểu nữ đạt trên 30% (khóa V: 32%). Những khóa sau này chỉ đạt từ 18 đến hơn 27%. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân mà cuộc bầu cử tới đòi hỏi sự lãnh đạo quyết liệt của các cấp ủy để khắc phục tình hình này.
Thứ nhất, nguyên nhân về tính đặc thù của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị ít phụ nữ mà số người ứng cử lại tương đối nhiều như quốc phòng, an ninh, thường trực các cơ quan của Quốc hội... Những cơ quan này không thể áp dụng tỷ lệ cao người ứng cử là nữ được. Ngược lại, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là ở địa phương có nhiều phụ nữ, nhưng trong thực hiện người ta có thiên hướng cố gắng đạt tỷ lệ trung bình. Vì vậy, Đảng đoàn Quốc hội, Hội đồng bầu cử Quốc gia phải chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tính toán tỷ lệ nữ ứng cử cho từng loại cơ quan, tổ chức, đơn vị đảm bảo tính tương thích.
Thứ hai, mấy khóa gần đây trong cơ cấu không còn đại biểu là nông dân, công nhân - hai thành phần có tầm quan trọng nhiều mặt trong xã hội. Nhiều khóa trước, các đại biểu thuộc cơ cấu này chiếm tỷ lệ khá cao (khóa IV, công nhân là 23,3%, nông dân là 21,4%; Khóa V, công nhân là 22%, nông dân là 21%; khóa VI công nhân là 16,2%, nông dân là 20,3%...) [6]. Riêng khóa IX thì lại đổi tỷ lệ đại biểu công nhân thành công nghiệp, nông dân thành nông nghiệp. Bốn khóa gần đây, tỷ lệ đại biểu của khối doanh nghiệp (có từ 3 đến 7%), nhưng trong đó doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm phần đáng kể.
Như vậy, trên thực tế, dần dần các ĐBQH hầu như đều là cán bộ, công chức nhà nước, mà cơ cấu cán bộ, công chức nhà nước nhất là ở Trung ương tỷ lệ nữ không cao. Cơ cấu của khối cử tri có tỷ lệ nữ không cao mà lại đặt yêu cầu nâng cao tỷ lệ nữ được giới thiệu ứng cử thì rất khó. Do đó, phải xác định cơ cấu, thành phần thật hợp lý ngay từ khi phân bổ và chuẩn xác lại trong ba lần hiệp thương, trong đó có vấn đề lớn là cần xem xét để có đại biểu là những người lao động bình thường (công nhân, nông dân, lao động khu vực phi chính thức...) đại diện cho phần lớn nhân dân và cử tri cả nước.
Ba là, sự “cọ xát” căng thẳng về số lượng. Theo tâm lý chung, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương nào cũng mong muốn có số lượng người được giới thiệu ứng cử nhiều hơn. Ở địa phương có “công thức” tính gồm 3 đại biểu “gốc” cộng số lượng đại biểu tăng thêm theo số dân, còn ở Trung ương thì “ngầm hiểu” là tầm quan trọng của mỗi loại cơ quan, tổ chức, đơn vị, mà “định tính” về tầm quan trọng thì thảo luận vô cùng căng thẳng, khó phân định. Vì vậy, đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cụ thể của tổ chức Đảng trên cơ sở Hiến pháp và tính chất, hiệu quả hoạt động của mỗi lĩnh vực.
Bốn là, bám sát tiêu chuẩn đại biểu để “cọ xát” về chất lượng người được giới thiệu ứng cử: Chất lượng (đức và tài) là vấn đề hàng đầu trong hoạt động của đại biểu. Ngoài học vấn thể hiện qua cấp độ được đào tạo thì trong lãnh đạo nên kết hợp với việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi làm việc, địa bàn hoạt động, nơi cư trú để nắm bắt được tinh thần, thái độ công tác, kết quả công việc cụ thể, mức độ gắn kết với nhân dân, đạo đức, tư cách của người được giới thiệu ứng cử. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề cần được quan tâm đặc biệt đó là, người được giới thiệu ứng cử phải là người không tham nhũng, không liên quan đến tham nhũng.
Đối với hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND các cấp:Ngoài những vấn đề tương tự như giới thiệu người ứng cử ĐBQH, cần lưu ý tới cơ cấu nữ ở HĐND cấp xã. Thực tế cho thấy, kết quả các cuộc bầu cử gần đây chưa bao giờ tỷ lệ đại biểu nữ HĐND cấp xã đạt được định hướng và bao giờ cũng thấp hơn tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh và cấp huyện, (nhiệm kỳ 2007-2011, cấp tỉnh 23,9%, cấp huyện 23,0%, cấp xã 19,5%; nhiệm kỳ 2011-2016, cấp tỉnh 25,2%, cấp huyện 24,6%, cấp xã 21,7%; nhiệm kỳ 2016-2021, cấp tỉnh 26,7%, cấp huyện 27,5%, cấp xã 26,5%) [7]. Sở dĩ có tình hình này là do việc vận dụng tiêu chuẩn. Bốn tiêu chuẩn đại biểu HĐND là thống nhất, nhưng đối với đại biểu HĐND cấp xã thì tiêu chuẩn thứ 3 “Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND”, điều này đối với phụ nữ ở cấp xã nói chung và phụ nữ ở xã, bản miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là vô cùng khó khăn. Trình độ văn hóa thấp, chuyên môn, khoa học kỹ thuật yếu; một số nơi do tập tục, lối sống lạc hậu... nên khó có điều kiện tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Một số chị em tự ti, không muốn tham gia hoạt động. Có lẽ các tổ chức Đảng ở những địa bàn này phải căn cứ vào tình hình, điều kiện thực tế để lựa chọn, giới thiệu (theo phương pháp “so đũa”) chứ không thể dập khuôn theo khu vực đồng bằng hay thành phố, thị xã.
3. Lãnh đạo thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương
Theo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015, các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương gồm:
- Ủy ban bầu cửcấp tỉnh, có từ 21 đến 31 thành viên; Ủy ban bầu cử cấp huyện, có từ 11 đến 15 thành viên; Ủy ban bầu cử cấp xã, có từ 9 đến 11 thành viên (gọi chung là Ủy ban bầu cử).
- Ban bầu cử ĐBQH, có từ 9 đến 15 thành viên; Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, có từ 11 đến 13 thành viên; Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, có từ 9 đến 11 thành viên; Ban bầu cử đại biểu HĐND cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên (gọi chung là Ban bầu cử).
- Tổ bầu cử: Mỗi khu vực bỏ phiếu có một Tổ bầu cử, có từ 11 đến 21 thành viên.
Như vậy, số lượng các tổ chức bầu cử ở địa phương và các thành viên trong các tổ chức đó là rất lớn. Vì vậy, việc lãnh đạo các tổ chức làm công tác bầu cử ở địa phương phải chú ý ít nhất đối với hai vấn đề:
Một là, phải bảo đảm các thành phần đúng như yêu cầu luật định, nhân sự (các thành viên) của các tổ chức phải bảo đảm yếu tố chính trị cao và có nghiệp vụ hoặc đã từng làm tốt công tác bầu cử các khóa trước, đặc biệt là ở cấp xã, cấp huyện. Kinh nghiệm hai cuộc bầu cử vừa qua cho thấy, có một vài sai sót đều chủ yếu xảy ra ở huyện hoặc xã. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chung nhất do “lợi ích nhóm”, trình độ năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm. Bởi vậy, việc lựa chọn nhân sự, tăng cường quản lý và lãnh đạo tư tưởng chặt chẽ là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Hai là, sự lãnh đạo của các tổ chức bầu cử ở cấp huyện, cấp xã, nhất là ở các Ban, các Tổ bầu cử, đảng viên vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có trọng trách tác nghiệp nghiệp vụ cụ thể trong bầu cử, do đó tuyệt đối không bao giờ được xem nhẹ sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, cụ thể. Ngoài ra, những sơ suất như in sai phiếu bầu, viết sai họ, tên người ứng cử, phát thừa phiếu bầu... mà kiểm tra, giám sát không phát hiện ra sẽ dẫn đến thiệt hại lớn về công sức, thời gian, tiền của để tổ chức bầu cử lại.
4. Lãnh đạo việc phân bổ người ứng cử về các địa phương và phân chia người ứng cử vào các đơn vị bầu cử
Về giới thiệu người ứng cử về các địa phương: Việc giới thiệu người ứng cử ĐBQH về các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh về các huyện, quận, thị xã, trong lãnh đạo phải chú ý cả hai mặt là đặc điểm kinh tế, xã hội của địa phương và sự tương thích ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của người được giới thiệu. Các cuộc bầu cử trước, có người được Trung ương giới thiệu về địa phương ứng cử ĐBQH nhưng không trúng cử; ở HĐND cấp tỉnh cũng có một số nơi có tình trạng tương tự. Có thể có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân lĩnh vực hoạt động của người ứng cử không thích hợp với địa phương nơi ứng cử. Đây cũng là một kinh nghiệm trong lãnh đạo và trong tham mưu phân bổ người ứng cử theo địa bàn. Mặt khác, cần khắc phục tình trạng, một số địa phương luôn luôn muốn chọn những người ứng cử có chức sắc càng cao càng tốt, những người ứng cử là thành viên Chính phủ, những người đứng đầu ngành, lĩnh vực.
Về phân chia (sắp xếp) người ứng cử vào đơn vị bầu cử: Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐNH năm 2015 chưa quy định cụ thể, chi tiết việc phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử nên có hai vấn đề đáng quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo.
Một là, có một số địa phương lo ngại trách nhiệm để người ứng cử có chức sắc cao của địa phương hoặc do Trung ương giới thiệu mà bị “trượt” nên đã bố trí những người ứng cử khác trong danh sách bầu có trình độ và vị thế cách biệt, thấp xa. Đây là một ví dụ điển hình của tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, do đó trong lãnh đạo, chỉ đạo cần khắc phục tối đa tình trạng này.
Hai là, thực tiễn cho thấy, cùng là người ứng cử đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBQH, đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBHĐND nhưng sắp xếp vào đơn vị bầu cử này thì có thể không trúng cử, nhưng sắp xếp vào đơn vị bầu cử khác thì có thể đắc cử. Điều này đòi hỏi khi phân chia, lập danh sách những người ứng cử vào các đơn vị bầu cử phải hết sức công bằng, công minh, khách quan, trung thực, mà mục đích đạt đến là, đảm bảo được các cơ cấu định hướng ở mức tốt nhất... Muốn vậy, cần chỉ đạo nghiên cứu định ra những tiêu chí cần thiết làm căn cứ cho việc phân chia, sắp xếp. Các tiêu chí đó có thể là: có trình độ tương đương, có vị thế (chức danh) tương đương, có nam có nữ, khác đơn vị công tác... Như vậy, việc trúng cử hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào chương trình hành động và khả năng vận động bầu cử của người ứng cử.
========================================= [1] Điều 1 Luật Bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND năm 2015. [2] Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. [3] Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. [4] Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. [5] Sổ ĐBQH khóa XIV 2016-2021, phần thống kê ĐBQH các khóa. [6] Sổ ĐBQH khóa XIV 2016-2021, phần thống kê ĐBQH các khóa. [7] Trích Báo cáo số 453 ngày 18-7-2011 của Hội đồng bầu cử về kết quả cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIII và đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2011-2016; Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. |
TS. BÙI NGỌC THANH
Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
(Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp)