1. Những nhiệm vụ trọng tâm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong nhiệm kỳ III
(LSVN) - Sau hơn 12 năm kể từ khi thành lập và sau hai nhiệm kỳ hoạt động, Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò “ngôi nhà chung” của giới Luật sư cả nước. Dẫu vậy, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và trước sự phát triển của cách mạng công nghệ 4.0 cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với Liên đoàn Luật sư Việt Nam và hoạt động nghề nghiệp của giới Luật sư cả nước.

Luật sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhiệm kỳ III.
Quán triệt về điều này, Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III đã dành nhiều thời gian thảo luận về phương hướng, giải pháp hoạt động cho cả nhiệm kỳ. Đặc biệt, Đại hội đã xác định cụ thể về 12 nhiệm vụ trọng tâm sẽ được Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện từ nay đến hết nhiệm kỳ.
Thứ nhất, củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự làm việc chuyên trách và bán chuyên trách của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hỗ trợ cho các Luật sư hành nghề. Bộ máy tổ chức nhân sự của tổ chức xã hội - nghề nghiệp không giống với bộ máy hành chính của nhà nước, bởi cùng với các quy định nó còn thể hiện vai trò tự quản, đặc thù nghề nghiệp. Họ phải đáp ứng những yếu tố về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời phải dành thời gian, tâm huyết và thể hiện được tinh thần xả thân vì công việc, chấp nhận thiệt thòi về quyền lợi. Có như vậy, những người đại diện mới có thể là tấm gương của đội ngũ Luật sư và từ đó có thể tạo lập được niềm tin của chính đội ngũ Luật sư vào “ngôi nhà chung” của mình và để xứng đáng là những người đại diện của Luật sư.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đồng đều cho đội ngũ Luật sư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư. Trong đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho Luật sư là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, xuyên suốt để xây dựng các giá trị chuẩn mực của nghề Luật sư, đồng thời sẽ đổi mới mạnh mẽ công tác bồi dưỡng Luật sư, coi trọng việc tự bồi dưỡng, tự học tập của mỗi Luật sư và phát động phong trào học tập rèn luyện trong đội ngũ Luật sư. Đối với mỗi Luật sư, cần ý thức được việc tự học tập, rèn luyện là con đường đi suốt cuộc đời của nghề Luật sư nhằm xây dựng uy tín, thương hiệu cho cá nhân Luật sư và cho cả đội ngũ Luật sư, nghề Luật sư. Bên cạnh đó sẽ thường xuyên tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới công tác bồi dưỡng Luật sư hiệu quả, thiết thực, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức nghề nghiệp Luật sư, nhằm mang lại những giá trị đích thực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư.
Thứ ba, triển khai đồng bộ công tác bảo vệ quyền lợi Luật sư, trong đó có sự phối hợp giữa Luật sư, Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác. Thực tiễn cho thấy, nhận thức về những quy định của pháp luật do còn có những sự khác biệt về quyền lợi hợp pháp của Luật sư khi hành nghề, nên vẫn còn những hiện tượng cản trở quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần đề ra giải pháp, tích cực chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư. Sự phối hợp của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư với các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp cho Luật sư còn giúp cho các cơ quan nhà nước thực hiện và làm đúng các quy định của pháp luật. Từ đó, sẽ cùng có trách nhiệm trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến Luật sư là một trong những công việc khó khăn và phức tạp. Việc giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến Luật sư và xử lý kỷ luật luật sư thường mất rất nhiều thời gian, công sức của các cơ quan, đơn vị. Do đó, Liên đoàn và các Đoàn Luật sư cần tổ chức phân công công tác này một cách khoa học và hiệu quả; cần có chế độ chính sách phù hợp với những Luật sư được phân công tham gia công tác này; quá trình xác minh, giải quyết cần thận trọng, khách quan, chính xác theo quy định. Các kết luận và giải quyết xử lý vi phạm cần công khai minh bạch theo đúng quy định và nguyên tắc hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư. Các cơ quan, đơn vị của Liên đoàn và của Đoàn Luật sư cần tuân thủ thực hiện đúng quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Luật sư và có sự phối hợp chặt chẽ để công tác này đạt hiệu quả.
Thứ năm, cùng với công tác xử lý kỷ luật, công tác khen thưởng Luật sư cần được tiến hành đồng bộ, kịp thời, phù hợp. Những Luật sư gương mẫu chấp hành pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư, có những thành tích đóng góp cho cộng đồng, cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho khách hàng thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư khen thưởng kịp thời. Kinh nghiệm của một số hiệp hội Luật sư ở các nước phát triển cho thấy, họ khen thưởng rất ít, chủ yếu coi việc Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho khách hàng là việc đương nhiên để phát triển nghề nghiệp; nếu làm không tốt bị chê trách hay khiếu nại thì sẽ bị xem xét đưa vào hình thức kỷ luật. Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về việc khen thưởng, trong nhiệm kỳ, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần phải có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam và rất cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cho phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay của nước ta.
Thứ sáu, công tác hợp tác quốc tế của Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần duy trì, kế thừa những mặt tích cực, hiệu quả đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời linh hoạt, chủ động mở rộng quan hệ với tổ chức, hoạt động nghề nghiệp Luật sư nước ngoài trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhằm nâng cao vai trò, năng lực của Luật sư Việt Nam. Mặt khác, cần thể hiện thái độ xây dựng để củng cố niềm tin giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam với các đối tác quốc tế. Trong đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tập trung vào một số mũi nhọn trong hợp tác quốc tế để góp phần phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam trên một số lĩnh vực còn chưa mạnh như Luật sư tư vấn thương mại quốc tế, Luật sư về sở hữu trí tuệ, Luật sư tư vấn về tài chính, đấu thầu quốc tế…
![]()
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chụp ảnh lưu niệm cùng các đại biểu.
Thứ bảy, công tác quản lý tài chính, tài sản và xây dựng cơ sở vật chất của Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tiếp tục tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, Điều lệ và Quy chế tài chính của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Việc điều hành quản lý tài chính của Liên đoàn Luật sư Việt Nam phải đảm bảo công khai, minh bạch, vì lợi ích chung của giới Luật sư, không để thất thoát, lãng phí, tham nhũng, vụ lợi. Tập trung vào việc đề xuất với cơ quan có thẩm quyền bố trí trụ sở làm việc cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư và thành lập trường đào tạo nghề Luật sư. Tích cực, chủ động tham gia các hoạt động chung, thông qua các chương trình, dự án, từ đó đề xuất các khoản hỗ trợ kinh phí hợp lý từ các tổ chức, cơ quan cho hoạt động của Luật sư.
Thứ tám, tăng cường quan hệ, phối hợp với Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan ban, ngành Trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương trong các lĩnh vực công tác, nhất là trong quản lý, tạo điều kiện hành nghề và bảo vệ quyền lợi chính đáng của Luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư và mỗi Luật sư cần thể hiện rõ trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp vào công tác xây dựng, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tham gia vào giám sát và phản biện xã hội; tham gia vào công tác trợ giúp pháp lý và các hoạt động xã hội khác. Qua đó, cần khẳng định và thể hiện sự đóng góp có chất lượng của đội ngũ Luật sư trong các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thứ chín, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, pháp lý và trách nhiệm xã hội. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần chủ động đề xuất với Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương để tham gia thực hiện một số nhiệm vụ chính trị, pháp lý theo đặc trưng nghề nghiệp Luật sư, đặc biệt là tham gia vào quá trình cải cách tư pháp, rà soát thủ tục hành chính, xây dựng pháp luật, cũng như tham gia giải quyết các phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần xây dựng chương trình hành động chung của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư, trong đó cần xác định rõ trách nhiệm và đề xuất những hành động và công việc mà Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư có thể tham gia đóng góp vào công việc chung của Nhà nước và xã hội.
Thứ mười, củng cố hoạt động truyền thông của Liên đoàn Luật sư Việt Nam để một mặt truyền thông kịp thời, chính xác tin cậy những đóng góp của đội ngũ Luật sư với Nhà nước và xã hội. Cùng với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Liên đoàn Luật sư Việt Nam hiện nay, cần sớm hình thành Trung tâm truyền thông của Liên đoàn để thực hiện ngày càng hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về Luật sư và nghề Luật sư ở Việt Nam; bên cạnh đó chủ động phối hợp tốt với các cơ quan thông tấn báo chí khác nhằm quảng bá, truyền thông về nghề Luật sư. Cùng với đó, các Đoàn Luật sư cần hình thành hoặc hoàn thiện bộ phận chuyên trách về truyền thông, trang thông tin điện tử và có sự kết nối với công tác truyền thông của Liên đoàn, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan báo chí địa phương để triển khai ngày càng tốt hơn vai trò của mình. Thông qua hoạt động truyền thông sẽ khích lệ người tốt, việc tốt trong đội ngũ Luật sư, sàng lọc và loại bỏ những tiêu cực, hạn chế trong đội ngũ Luật sư; xây dựng hình ảnh về Luật sư công hiến phục vụ cộng đồng và phụng sự công lý.
Mười một, trước mắt sẽ xây dựng ba đầu tàu phát triển đội ngũ Luật sư nhằm nâng cao chất lượng hành nghề Luật sư, đó là: (1) đội ngũ Luật sư tham gia tranh tụng các vụ án hình sự; (2) đội ngũ Luật sư tư vấn, dịch vụ và tranh tụng lĩnh vực sở hữu trí tuệ; (3) đội ngũ Luật sư tư vấn đầu tư và thương mại quốc tế. Thông qua đó tạo lực đẩy để đưa đoàn tàu Luật sư Việt Nam tăng tốc phát triển trong thời gian tới, đồng thời dựa vào kết quả hoạt động Luật sư hàng năm, Liên đoàn sẽ tổng kết, rút kinh nghiệm để có thể đưa ra các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ Luật sư có khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý ở hầu hết các lĩnh vực pháp lý của đời sống xã hội. Từ đó, tạo lập niềm tin với khách hàng và xã hội.
Mười hai, phát triển nghề Luật sư, tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư gắn với chuyển đổi số. Đây chẳng những là xu hướng phát triển, mà còn là yêu cầu thực tế. Chuyển đổi số tạo điều kiện thuận lợi để Liên đoàn và các Đoàn Luật sư thực hiện nhiệm vụ tự quản, nâng cao chất lượng dịch vụ của Luật sư, hỗ trợ Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng nhanh chóng, khoa học, hiệu quả, giảm thiểu chi phí. Chuyển đổi số đồng thời giúp hoạt động của Luật sư tương thích với hoạt động của các ngành, nghề, cơ quan, ban ngành chức năng, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang quyết tâm xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số, đồng thời tiến tới tòa án xét xử trực tuyến. Liên đoàn Luật sư Việt Nam xác định đây là một trong những khâu đột phá, là nhiệm vụ và là công việc tất yếu trong định hướng phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới.
BẢO ANH
Nghề Luật sư ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai
2. Tín dụng cho người yếu thế tiếp cận từ góc độ tài chính toàn diện
(LSVN) - Tín dụng cho người yếu thế mà bản chất là tín dụng chính sách xã hội từ lâu đã trở thành vấn đề không chỉ ở cấp quốc gia của mỗi nước, mà hầu hết các nước trên thế giới đều đặc biệt quan tâm. Nhận thức rõ vai trò của vấn đề này, Việt Nam đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách và khung khổ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực tín dụng đối với người yếu thế, qua đó nhằm tạo sinh kế cho nhóm người khó khăn trong việc tiếp cận với các khoản vay thông thường, góp phần xóa đói, giảm nghèo, hướng tới một xã hội ổn định, công bằng và thịnh vượng, an sinh xã hội được bảo đảm.
Năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Một trong ba trụ cột chủ yếu và cơ bản của Chiến lược này là chính sách tín dụng cho người yếu thế. Bài viết tập trung phân tích về các khía cạnh: khái niệm người yếu thế, người yếu thế trong quan hệ tín dụng ngân hàng và vai trò, ý nghĩa của chính sách tín dụng đối với họ; kèm theo các đánh giá sơ bộ về thực trạng chính sách, thực tiễn thực thi chính sách cũng như đưa ra các quan điểm, mục tiêu tiếp cận để góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam trong thời gian tới.
![]()
Từ khóa: Người yếu thế; tín dụng cho người yếu thế; tài chính toàn diện.
Vị trí, vai trò của chính sách tín dụng cho người yếu thế từ góc nhìn tài chính toàn diện
Khái niệm tài chính toàn diện có thể được khái quát là việc các dịch vụ tài chính chính thức (tài khoản ngân hàng, tiết kiệm và tín dụng) được cung cấp tới mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với nhóm người dễ bị tổn thương, theo cách thức thuận tiện, chi phí hợp lý và phù hợp với nhu cầu. Như vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho các đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một trong các trục cơ bản và quan trọng thuộc khái niệm tài chính toàn diện là chính sách tín dụng đối với nhóm người dễ bị tổn thương hay còn gọi là nhóm người yếu thế trong xã hội. Với một chính sách tín dụng cởi mở, thuận tiện, có tính chất ưu đãi sẽ giúp đối tượng này thay đổi cuộc sống theo chiều hướng chất lượng hơn.
Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa to lớn của tín dụng cho người yếu thế đối với xã hội, ngày 22/11/2014 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW (Chỉ thị 40) của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.
Để đánh giá hiệu quả thực thi của Chỉ thị, ngày 10/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Nội dung đánh giá chỉ rõ: Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 40, với quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cả hệ thống chính trị và triển khai tích cực của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), công tác tín dụng chính sách xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; đã huy động được hàng trăm nghìn tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của đông đảo người nghèo và các đối tượng chính sách ở 100% xã, phường, thị trấn của cả nước, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững, hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, những người có hoàn cảnh khó khăn và xây dựng nông thôn mới. Đã có hơn 12 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn tại NHCSXH; góp phần giúp hơn 2,1 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho hơn 1,3 triệu lao động; giúp hơn 24.000 lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; gần 346.000 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng hơn 7,3 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, gần 142.000 căn nhà cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách...[1].
Để tiếp nối những thành công đã đạt được, Kết luận quán triệt: Tiếp tục quán triệt sâu rộng nội dung Chỉ thị 40, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các cấp ủy, chính quyền cần xác định công tác tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.[2]
Về mặt pháp lý, tín dụng đối với người yếu thế được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau. Trọng tâm, khái quát và tập trung nhất là các quy định của Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Người yếu thế trong quan hệ tín dụng ngân hàng
Theo nghĩa chung nhất thì những đối tượng được coi là người yếu thế là những đối tượng mà trong những hoàn cảnh giống nhau khi tham gia vào một quan hệ xã hội, quan hệ lao động, quan hệ pháp luật những đối tượng này luôn gặp bất lợi hơn so với những đối tượng khác trong cùng một hoàn cảnh. Nói cách khác, những đối tượng này phải thực hiện theo một cách hoàn toàn bất lợi với họ trong quan hệ đó. Tùy theo mục tiêu nghiên cứu, xem xét và quan hệ mà họ tham gia người ta có thể xếp nhóm người nhất định, chủ thể nhất định thuộc đối tượng là những người yếu thế. Ví dụ, người khuyết tật, người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người thuộc nhóm giới tính khác (đồng tính, song tính, chuyển giới - LGBT), người cao tuổi,…
Trong quan hệ tín dụng, có thể xem người yếu thế là người ít, thậm chí không có khả năng tiếp cận với các khoản tín dụng (khoản vay) theo cách thông thường như những người bình thường khác khi có nhu cầu”. Họ gặp khó khăn, trở ngại trong việc tiếp cận vốn vay so với các đối tượng bình thường khác do không có tài sản bảo đảm và/hoặc không đủ uy tín với tổ chức tín dụng (TCTD) vì các lý do thuộc về nhân thân.
Dưới giác độ học thuật, khái niệm tín dụng cho người yếu thế là: “Tín dụng cho người yếu thế là việc TCTD cho người yếu thế vay vốn, thời hạn vay phù hợp, điều kiện vay dễ dàng, có chính sách xử lý khi gặp rủi ro khách quan, khoản vay phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc giải quyết một phần nhu cầu thiết yếu, cải thiện đời sống”[3].
Ở một phương diện khác, tín dụng cho người yếu thế về bản chất là tín dụng chính sách xã hội, tín dụng ưu đãi của nhà nước, nếu không có những ràng buộc pháp lý thông qua sự điều chỉnh của pháp luật thì rất đễ xảy ra tình trạng trục lợi của một hoặc một số chủ thể nào đó có vị thế trong xã hội, dẫn tới tình trạng mặc dù thuộc diện yếu thế nhưng vẫn rất khó, thậm chí không tiếp cận được với khoản vay, làm cho mục đích, ý nghĩa của loại hình tín dụng này không đạt được.
Với tất cả những lý do nêu trên, có thể khẳng định rằng, để tín dụng cho người yếu thế vận hành một cách bình thường, quyền và nghĩa vụ của các bên được nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tế, vai trò của tín dụng cho người yếu thế được phát huy một cách tốt nhất, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững, rất cần có một chính sách định hướng đúng đắn, một khung pháp luật hoàn chỉnh, với cấu trúc hợp lý và nội dung khả thi cho hoạt động này.
Vai trò của tín dụng đối với người yếu thế dưới góc nhìn tài chính toàn diện
Tài chính toàn diện là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ (Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030).
Vai trò quan trọng của tín dụng đối với người yếu thế được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
- Là động lực giúp những người yếu thế vượt qua nghèo đói: vốn đối với họ là điều kiện tiên quyết để tổ sản xuất, thâm canh, tổ chức kinh doanh, là động lực đầu tiên giúp họ vượt qua khó khăn để thoát khỏi đói nghèo một cách bền vững.
- Là công cụ chủ chốt nhằm phá vỡ vòng xoáy nghèo đói: vòng xoáy nghèo đói là sự tiếp diễn dường như không kết thúc của nghèo đói. Là tập hợp những nhân tố, những sự kiện mà nghèo mỗi khi đã xuất hiện thì sẽ tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác trừ khi có sự can thiệp từ bên ngoài.
Tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng để hộ nông dân phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Lý thuyết mô hình kinh tế hộ đã chỉ ra rằng tín dụng là tiền đề quan trọng để hộ mua sắm vật tư, đầu tư sản xuất kinh doanh, nó trực tiếp liên quan đến mức độ sử dụng các chi phí đầu vào, quyết định mức sản lượng - đặc biệt đối với những hộ gặp khó khăn trong thanh khoản. Vì vậy, hạn chế tiếp cận tín dụng là cản trở căn bản, hạn chế hộ gia đình tối ưu hóa sản xuất và tiêu dùng.
- Góp phần quan trọng vào việc hạn chế cho vay nặng lãi (tín dụng đen): Tín dụng cho hộ nghèo đã góp phần cải thiện thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những vùng có nhiều hộ nghèo sinh sống. Nếu không có nguồn vốn tín dụng dành cho những hộ nghèo ở những khu vực này thì họ sẽ phải đi vay nặng lãi hoặc cầm cố ruộng đất để có vốn đầu tư sản xuất và chi phí cho cuộc sống, do vậy áp lực tài chính đối với những hộ nghèo rất nặng nề.
Thực tiễn thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam
Chính sách, pháp luật hiện hành về tín dụng cho người yếu thế
Quan hệ tín dụng này đang được điều chỉnh chủ yếu bởi Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 (Nghị định 78) của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Theo đó, chủ thể cho vay là các TCTD mà trọng tâm là Ngân hàng Chính sách xã hội, còn bên đi vay gồm các đối tượng sau: hộ nghèo; học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135) và các đối tượng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Các đối tượng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ tính đến thời điểm hiện tại, gồm có: hộ cận nghèo (theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo); người nhiễm HIV; người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; người bán dâm hoàn lương; hộ có gười nhiễm HIV/AIDS; hộ có người sau cai nghiện ma túy; Hộ có người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Hộ có người bán dâm hoàn lương (Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng chất thay thế, người bán dâm hoàn lương); hộ mới thoát nghèo (Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo).
Tất cả các đối tượng trên đây, có thể khác nhau về hoàn cảnh, điều kiện, nhân thân… nhưng đều có một điểm chung, đó là trong quan hệ với TCTD để tiếp cận các khoản vay họ bị coi là nhóm người yếu thế so với những người khác. Chính vì vậy mà pháp luật quy định cho họ được tiếp cận với các khoản tín dụng ưu đãi hay còn gọi là tín dụng chính sách xã hội do NHCSXH đóng vai trò là bên cho vay.
Việc có riêng các quy định pháp luật về tín dụng đối với nhóm chủ thể vay vốn được cho là yếu thế này là rất cần thiết, vì họ là những người nếu để cùng “sân chơi” với những người có điều kiện khác, họ sẽ rất khó, thậm chí không bao giờ tiếp cận được các khoản vay để phục vụ cho mục đích của mình khi cần, chỉ với một lý do duy nhất là không đủ tín nhiệm với bên cho vay. Sự không đủ tín nhiệm này có thể là không được bảo đảm về vật chất, không có tài sản bảo đảm cho khoản vay ở hộ nghèo, hộ cận nghèo,… hoặc không đủ tín nhiệm về tinh thần, uy tín thấp, ít niềm tin với bên cho vay vì có nhân thân không tốt ở người nhiễm HIV, sau cai nghiện ma túy, mại dâm hoàn lương… Việc có hẳn một chế định pháp luật về tín dụng được coi là đặc thù áp dụng cho nhóm khách hàng này giúp họ giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn trong cuộc sống, giảm gánh nặng an sinh xã hội và góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững mà Đảng và Nhà nước đã và đang phấn đấu đạt được.
Bên cạnh việc bên đi vay phải thỏa mãn các điều kiện chung khi tiếp cận với các khoản vay như: i) có năng lực chủ thể pháp luật dân sự và tự chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; ii) mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; iii) có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật, tùy từng đối tượng cụ thể mà người vay thuộc nhóm chủ thể được coi là yếu thế này cần phải thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định.
Đánh giá sơ bộ về hiệu quả thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam thời gian qua
Việc thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở nước ta giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành công nhất định. Vốn tín dụng chính sách xã hội được đầu tư cho phát triển sản xuất, tạo sinh kế, tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cụ thể:
Thứ nhất, Chương trình tín dụng hộ nghèo: NHCSXH cho vay đối với hộ nghèo góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo và ổn định xã hội.
Thứ hai, Chương trình tín dụng hộ cận nghèo: Được thực hiện từ năm 2013 theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ cận nghèo vay sản xuất kinh doanh, giúp hộ vay tăng thu nhập, cải thiện đời sống, giảm nguy cơ tái nghèo.
Thứ ba, Chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo: Ngày 21/7/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 28/2013/QĐ-TTg về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo đã thể hiện sự quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Chính sách này được cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và nhân dân phấn khởi đón nhận, đáp ứng được nguyện vọng của cử tri cả nước; giúp cho các hộ mới thoát nghèo trong vòng 3 năm tiếp tục được vay vốn ưu đãi lãi suất thấp để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Thứ tư, Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Nguồn vốn này đã giúp các hộ gia đình được sử dụng nước sạch, công trình nhà tiêu hợp vệ sinh; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Thứ năm, Chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm: Nguồn vốn tín dụng đã góp phần tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, mở rộng sản xuất, phát triển các ngành nghề, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa ở nông thôn.
Thứ sáu, Chương trình tín dụng học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: Đây là chương trình tín dụng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc cả về kinh tế, chính trị và xã hội, duy trì hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo có điều kiện tiếp tục theo học, ảnh hưởng tích cực trong công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Thứ bảy, Chương trình cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: Thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ các hộ nghèo để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách về tín dụng đối với người yếu thế ở Việt Nam trong thời gian tới
Hoàn thiện pháp luật về tín dụng đối với người yếu thế phải phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
Một là, quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân[4].
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần xác định nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trong chương trình và kế hoạch, hoạt động thường xuyên của các cấp ủy, các ngành, địa phương và đơn vị. Tổ chức thực hiện tốt chủ trương huy động các nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững. Nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội; công tác điều tra, xác định đối tượng được vay vốn; phối hợp giữa các hoạt động huấn luyện kỹ thuật, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ với hoạt động cho vay vốn của NHCSXH, giúp người vay sử dụng vốn có hiệu quả.
Ba là, nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò tập hợp lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách khác; nâng cao hiệu quả giám sát của toàn dân đối với công tác này. Các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác của NHCSXH có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung được ủy thác; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH và chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội; hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả; lồng ghép với các chương trình, dự án của các tổ chức chính trị - xã hội. Làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu[5].
Hoàn thiện pháp luật về tín dụng cho người yếu thế phải đặt trong bối cảnh tổng thể của Chương trình tài chính toàn diện quốc gia
Thứ nhất, thực hiện tài chính toàn diện có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của khu vực nhà nước với khu vực tư nhân. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tài chính toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, thúc đẩy tài chính toàn diện đi đôi với sự an toàn, hiệu quả và bền vững của cả hệ thống tài chính, bảo vệ người tiêu dùng.
Thứ ba, mục tiêu đặt ra là mọi người dân, đặc biệt là những người thuộc nhóm yếu thế đều phải được tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng một cách thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả khi có nhu cầu và đủ điều kiện.
Hoàn thiện pháp luật về tín dụng cho người nghèo phải bảo đảm tính đồng bộ với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan
Về nguyên tắc, bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào, chỉ được coi là hoàn thiện khi có sự tương thích, không mâu thuẫn, không chồng chéo, đồng bộ, hài hòa với các văn bản thuộc các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là các đạo luật chung, luật gốc, luật cơ bản và có giá trị pháp lý cao hơn. Pháp luật về tín dụng cho người yếu thế cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó, cụ thể: phải phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng… về các vấn đề như: (i) chủ thể của hợp đồng; (ii) các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; (iii) lãi suất cơ bản… Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tín dụng chính sách theo hướng ổn định, có tính dự báo. Nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách: tạo lập nguồn vốn, trong đó chú ý tới chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp vào nguồn vốn tín dụng chính sách; quy định rõ đối tượng vay vốn, lãi suất ưu đãi; các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguồn vốn; quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tín dụng, của các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác (tín chấp).
[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. [2]Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. [3] Nguyễn Hữu Thu (2020), Phát triển tín dụng cho hộ nghèo ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên (p.30-45). [4] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lẩn thứ XIII. [5] Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. |
Tài liệu tham khảo: 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. 2. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. 3. Chương VI, Luật Quốc tế về quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương, http://fdvn.vn/uploads/2019/08/luu-ban-nhap-tu-dong-7-1.pdf, truy cập ngày 19/5/2021. 4. Luật Phòng chống thiên tai năm 2013. 5. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. 6. Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. 7. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII. 8. Quyết định số 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 9. Nguyễn Hữu Thu (2020), Phát triển tín dụng cho hộ nghèo ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên. 10. Trang Chính trị - xã hội, Người yếu thế vẫn thế, https://anninhthudo.vn/nguoi-yeu-the-van-the-post148220.antd, truy cập ngày 12/3/2021. |
TIẾN SĨ LÊ NGỌC THẮNG
Học viện Ngân hàng
Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
3. Nghề Luật sư thời công nghệ thông tin
(LSVN) - Luật sư tham gia các phiên tòa hình sự, dân sự… mà không cần đến trụ sở tòa án; bị cáo có thể tham gia phiên tòa từ trại giam hay đương sự ngồi nhà cũng có tranh luận, trả lời câu hỏi của hội đồng xét xử, người bảo vệ quyền lợi đương sự… sẽ là điểm nhấn về hoạt động hành nghề Luật sư trong năm 2022.
![]()
Thích ứng với phiên tòa trực tuyến
Cách nay một vài năm nếu ai đó cho rằng: “Một ngày nào đó, Luật sư sẽ tham gia phiên tòa qua môi trường mạng. Hội đồng xét xử ngồi tại trụ sở, còn đương sự, Luật sư ngồi nhà hay bị cáo ngồi trong trại giam, thông qua nền tảng trực tuyến để cùng tham gia phiên tòa xét xử mà không cần thiết phải cùng có mặt tại phòng xử án như cách xử truyền thống”, sẽ bị xem là “nói chuyện viển vông”. Nay, chuyện “viển vông” đó sắp trở thành hiện thực.
Ngay trong năm 2022, công tác xét xử của hệ thống tòa án cũng sẽ có sự thay đổi vừa để thích ứng với tình hình mới của đại dịch, vừa ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xét xử mà phiên tòa trực tuyến là một điển hình. Ngày 12/11/2021, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 33/2021/QH15 (Nghị quyết 33) về tổ chức phiên tòa trực tuyến có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Theo đó, phiên tòa trực tuyến được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài phòng xử án do tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm.
Theo Điều 1 của Nghị quyết 33, tòa án nhân dân được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án rõ ràng. Đối với vụ án phức tạp hoặc thuộc các trường hợp: vụ án hình sự, dân sự, hành chính liên quan đến bí mật nhà nước; vụ án hình sự về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự; vụ án hình sự về một trong các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự, thì xét xử trực tiếp.
Với Nghị quyết này của Quốc hội, mở ra một hình thức xét xử phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam trong thời điểm đại dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Để thích ứng linh hoạt với sự thay đổi này, giới Luật sư Việt Nam ngay từ lúc này cần trang bị cho mình kiến thức về phần mềm trực tuyến để khi hệ thống tòa án triển khai thì sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ.
“Số hóa” hoạt động hành nghề Luật sư
Theo dự báo của tờ New York Time (Hoa Kỳ) vào năm 2020 hay mới đây là Diễn đàn vì tương lai (Forum for the Future - Anh) cho thấy: Đến năm 2030, thời kỳ của công nghệ thông tin bùng nổ, tác động trực tiếp đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo của cách mạng công nghiệp 4.0, quản trị nhà nước của các quốc gia cũng phải thay đổi để thích ứng. Bối cảnh phát triển công nghệ thông tin trên thế giới và Việt Nam đã và đang đặt ra cho giới Luật sư Việt Nam nhiều vấn đề cần thích ứng.
Ngoài việc phải thích ứng với việc tham gia phiên tòa xét xử trực tuyến như nói ở trên, Luật sư Việt Nam cần phải tận dụng tối đa tiện ích của công nghệ thông tin để phục vụ cho công việc. Trong thời gian tới, việc hội họp, đào tạo, bồi dưỡng… bằng nền tảng trực tuyến sẽ được thực hiện thường xuyên hơn. Trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, trong năm 2021, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh và một vài Đoàn Luật sư khác đã chuyển hình thức bồi dưỡng trực tiếp sang nền tảng trực tuyến và đạt những kết quả rất tốt.
So với hình thức bồi dưỡng trực tiếp, bồi dưỡng trực tuyến có nhiều lợi thế hơn: vẫn tổ chức bồi dưỡng thông suốt trong điều kiện dịch bệnh phức tạp, không cho tập trung đông người để phòng chống dịch; số lượng Luật sư tham gia cho một lần bồi dưỡng cũng nhiều hơn so với tổ chức trực tiếp nhưng vẫn bảo đảm chất lượng; chi phí tổ chức tiết kiệm hơn so với tổ chức các khóa trực tiếp; việc kiểm tra, điểm danh người học cũng khoa học và không mất nhiều thời gian dù số lượng lớn. Với số lượng gần 6.700 Luật sư thành viên (tính đến hết tháng 11/2021), trong thời gian tới, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh sẽ đẩy mạnh việc bồi dưỡng trực tuyến. Đây cũng được xem là thế mạnh của Đoàn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và được Luật sư thành viên nhiệt tình ủng hộ.
Với các nền tảng trực tuyến cũng giúp cho công việc của Luật sư tiếp xúc khách hàng được dễ dàng hơn. Trước đây, việc trao đổi với thân chủ qua điện thoại di động trong những tình huống cần sự hỗ trợ nhanh chóng của Luật sư là một sự tiện lợi. Nay, Luật sư Việt Nam có thể tư vấn cho thân chủ theo hình thức trực tuyến nhưng vẫn nhìn thấy mặt nhau, quan sát biểu cảm trên gương mặt, cái chau mày, nụ cười tươi, dù hai người cách nhau vài trăm, thậm chí vài nghìn cây số.
Một tiện ích khác của công nghệ thông tin là việc sao chụp và xử lý hồ sơ vụ án. Hiện nay, với việc tận dụng điện thoại thông minh (smart phone), Luật sư có thể sao chụp tài liệu và dùng phần mềm chuyển đuôi từ JPEG sang PDF để nghiên cứu tiện lợi, nhanh chóng hơn. Hồ sơ vụ án, nhất là án hình sự với nhiều bị cáo, người bị hại… dày hàng trăm, thậm chí hàng ngàn bút lục là chuyện “thường ngày ở huyện”. Nếu làm theo cách truyền thống là photocopy hoặc chụp ảnh rồi in hình ảnh ra để đọc thì sẽ rất bất tiện, hồ sơ lưu trữ nhiều, vừa tốn kém, vừa xử lý lâu. Nếu tận dụng phần mềm chuyển đổi tập tin, Luật sư có thể xử lý xong hồ sơ chỉ bằng 1/5 thời gian xử lý kiểu truyền thống. Tiện lợi hơn nữa là Luật sư có thể sắp xếp thành từng nhóm tài liệu với mức độ quan trọng để khi ra phiên tòa, có thể tra cứu trong máy tính xách tay (laptop) rất nhanh, không phải lục tìm trong đống hồ sơ đồ sộ. Một số Luật sư còn sử dụng Google drive hoặc các trang mạng khác để đưa dữ liệu lên đó lưu trữ hộ, khi cần thiết tải về để nghiên cứu. Rất tiện lợi và có thể làm việc mọi lúc, mọi nơi.
Mặt khác, với sự trang bị thiết bị công nghệ kết nối mạng không dây/dữ liệu di động, Luật sư có thể tra cứu các văn bản pháp luật ở bất cứ nơi đâu. Chỉ cần một cái nhấp chuột, “tất tần tật” quy định pháp luật có thể được tra cứu trong vòng “một nốt nhạc”.
Đã qua rồi cái thời hình ảnh Luật sư “tay xách, nách mang”, khệ nệ mang từng chồng hồ sơ cao ngất ngưởng vào phiên tòa cùng với các quyển sách luật đi kèm. Với việc trang bị một điện thoại thông minh với dung lượng 256G cùng laptop trang bị ổ cứng 1TG, kết nối mạng (4G/5G/wifi), việc hành nghề của Luật sư trở nên dễ dàng như trong lòng bàn tay. Sẽ không ngạc nhiên khi ngay trong năm 2022, hình ảnh Luật sư Việt Nam đến phiên tòa chỉ với một chiếc laptop cùng chiếc điện thoại thông minh nhưng được chứa đựng toàn bộ dữ liệu của vụ án cùng “thế giới luật” thu nhỏ trong một chiếc cặp gọn nhẹ.
Luật sư tự tin, đĩnh đạc tham gia phiên tòa với một chiếc máy tính xách tay chứa dữ liệu vụ án được số hóa, sử dụng điện toán đám mây được kết nối mạng không dây. Đã qua rồi cái thời, Luật sư “tay xách, nách mang” khệ nệ ôm hàng đống hồ sơ vào phiên tòa. Đó là những tiện ích của công nghệ thông tin mà giới Luật sư Việt Nam cần tận dụng để phát huy tốt nhất cho nghề nghiệp của mình. |
Luật sư Nguyễn Văn Đức
Ủy viên Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh
Vai trò của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
4. Nhà nước pháp quyền Cộng hòa liên bang Đức
(LSVN) - Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là hình mẫu lý tưởng mà nhiều nước trên thế giới hướng tới, bởi đó là kết quả phát triển của nền văn minh nhân loại khi pháp luật được tôn vinh và thực thi hiệu quả…
![]()
Cách đây gần hai thế kỷ, khái niệm NNPQ đã ra đời ở Đức. Nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng người Đức thời kỳ Phục hưng Immanuel Kant (1724-1804), đã góp phần to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển khái niệm này. Theo đó, chỉ có thông qua phân chia quyền lực thì các quyền của công dân mới được thực thi; trường hợp cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm quyền tự do của người dân thì phải đối mặt với chế tài (trừng phạt)…
Cơ chế bảo hiến đáng tin cậy của CHLB Đức - một trong những yếu tố quan trọng của NNPQ được Luật Cơ bản (LCB) 1949 quy định, đặc biệt với sự kiểm tra, giám sát, phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang và tòa án hiến pháp 16 bang được duy trì và phát triển vững chắc.
Cấu trúc mô hình của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức
Có thể nói, cấu trúc NNPQ của Đức được thể hiện trên một bức tranh “bảy sắc cầu vòng” phong phú, đa dạng của hệ thống chính trị được mệnh danh là “nhà nước của các đảng phái” với nhiều ý nghĩa từ cấp liên bang đến các bang trên cơ sở quy định trong 102 điều, từ Điều 20 đến Điều 104 LCB 1949.
Tầm quan trọng được ưu tiên hàng đầu về tổ chức nhà nước là 7 cơ quan hiến pháp (Quốc hội liên bang; Hội đồng liên bang; Ủy ban hỗn hợp; Hội nghị liên bang; Tổng thống liên bang; Chính phủ liên bang; Tòa án Hiến pháp liên bang) được thành lập có ý nghĩa to lớn, thiết yếu, cơ bản, với những đặc điểm sau:
Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước dân chủ
Điểm qua về nền dân chủ, tự do trong lịch sử nước Đức: Nhà nước cộng hòa Weimar (1918-1933) đánh dấu sự nổi tiếng với nền dân chủ nghị viện (mặc dù do hạn chế về mặt lịch sử nên không hoàn toàn thành công), Hiến pháp Weimar 1919 và “Tòa án nhà nước” để giải quyết các “tranh chấp hiến pháp” của Vương quốc Đức. Trong Nghị viện cộng hòa thời đó đã có tới 6 đảng phái chính trị khác nhau. Những truyền thống quý báu được kế thừa và phát triển kể cả khi thành lập nước CHLB Đức vào năm 1949, vốn được khẳng định tại khoản 1 Điều 20 LCB cho đến ngày nay.
Nền dân chủ được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong hệ thống và phương thức bầu cử, trong các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền và các tổ chức, hiệp hội, cơ quan khác, trường học…
Có thể lấy một trong nhiều ví dụ để minh họa: theo quy định của pháp luật về thi hành án của CHLB Đức thì tù nhân cũng có chế độ nghỉ phép hàng năm và có tài khoản để tích lũy khoản tiền trong thời gian lao động, cải tạo để khi ra tù tái hòa nhập tốt vào đời sống xã hội.
Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước liên bang
Nhà nước liên bang được quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB.
Từ năm 1949 đến 03/10/1990, CHLB Đức gồm 11 bang. Sau sự kiện lịch sử đáng nhớ - ngày 03/10/1990 nước Đức tái thống nhất một cách nhanh chóng trong hòa bình, dẫn tới lãnh thổ CHDC Đức trước đó nay hình thành 5 bang mới. Mỗi bang trở thành “một nhà nước địa phương” với cơ cấu, tổ chức gần như cấp liên bang, tuy mức độ, quy mô và thẩm quyền giới hạn: Quốc hội bang, chính phủ bang gồm nhiều bộ, hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học, hành chính, tòa án hiến pháp bang…
Để bảo đảm ý nghĩa về mặt xã hội, sự công bằng, bình đẳng trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” giữa cơ quan nhà nước cấp trung ương cũng như địa phương, các bang đều có đại diện tại Hội đồng liên bang, Ủy ban hỗn hợp, Tòa án tối cao liên bang…
Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước xã hội
Khoản 1 Điều 20 LCB cũng khẳng định CHLB Đức là nhà nước xã hội, vì lẽ đó nhân phẩm con người được đặt lên hàng đầu và quy định tại khoản 1 Điều 1, tiếp theo là các quy định về quyền cơ bản của công dân.
Chúng ta nghe nói nhiều về thuật ngữ “quyền lực nhà nước”, thế nhưng trong NNPQ thì “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (khoản 2 Điều 20 LCB) hay còn gọi là “nhà nước dân sự”, vì vậy nhân dân phải là “đối tượng điều chỉnh đầu tiên của pháp luật” (từ Điều 1 đến Điều 19 LCB) mà “hiến pháp của hiến pháp” lần lượt thể hiện: bảo vệ nhân phẩm, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, bảo vệ hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền sở hữu…
Cộng hòa liên ban Đức bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội tốt nổi tiếng thế giới, trong đó nguyên tắc công bằng xã hội là tâm điểm, mục đích của NNPQ, không bị thay đổi và có hiệu lực vô thời hạn. Nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước thật lớn lao trong nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em (khoản 4 Điều 6 LCB); bình đẳng nam nữ trong việc làm và tiền lương; chế độ bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế ưu việt, tôn trọng, giúp đỡ người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội, trợ cấp tiền nhà ở; các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo vệ môi trường, thực hiện tốt mục tiêu cải thiện, nâng cao điều kiện sống của người dân.
Quốc hội liên bang
Quốc hội CHLB Đức khóa XX (2021-2025) vừa được kiện toàn sau cuộc bầu cử ngày 26/9/2021 có 736 nghị sĩ (số lượng lớn nhất từ trước đến nay, đứng thứ hai thế giới) do Đảng Xã hội dân chủ đứng đầu, liên minh với Đảng Xanh và Đảng Dân chủ tự do để có đa số tuyệt đối nhằm thành lập Chính phủ liên bang.
Vốn duy trì và phát triển truyền thống đa nguyên, cởi mở, Quốc hội liên bang hiện tại có 8 đảng phái chính trị: Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo (CDU) 152 ghế, Đảng Xã hội dân chủ (SPD) 206 ghế; Đảng Con đường khác cho nước Đức (AfD) 83 ghế; Đảng Dân chủ tự do (FDP) 92 ghế; Đảng Cánh tả (Die Linke) 39 ghế; Đảng Xanh (Gruenen) 118 ghế; Đảng Liên minh xã hội thiên chúa giáo Đức (CSU) 45 ghế và Đảng Dân tộc ít người gốc Đan Mạch (SSW) 1 ghế.
Cơ sở của bức tranh đa màu sắc trên đây là truyền thống dân chủ như đã nêu trên và quy định tại khoản 1 Điều 22 LCB khi Hiến pháp liên bang khẳng định việc thành lập một đảng phái chính trị là quyền tự do của mỗi người; tuy nhiên, điều lệ, nội dung hoạt động phải phù hợp với nguyên tắc dân chủ, phải công khai tài chính tài sản của đảng; ngược lại, nếu vi hiến, đảng phái chính trị đó sẽ bị Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố cấm hoạt động vĩnh viễn.
Ở CHLB Đức, nguyên tắc cơ cấu, tổ chức các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương luôn gắn với phương châm quyền lực không được tập trung vào một cá nhân, cơ quan, tổ chức “quá mức cho phép”. Đây là kết quả của bài học quý báu được đúc kết sau khi nước Đức trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Ví dụ: Chủ tịch Quốc hội liên bang thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng 1 trong 2 người đại diện thuộc Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo; 3 phó chủ tịch quốc hội thuộc 3 đảng phái chính trị khác nhau: Đảng Xanh, Đảng Cánh tả và Đảng Dân chủ tự do.
Một tiêu chí đặt ra trong khi thực hiện nhiệm vụ lập pháp là Quốc hội liên bang phải luôn gắn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào trật tự pháp luật thống nhất, phù hợp vời hiến pháp; kỹ thuật lập pháp phải bảo đảm tính khúc chiết, nội dung phải minh bạch, rõ ràng; các quy định phải “nhìn xa, trông rộng”, thực tế, dễ áp dụng, tránh sửa đổi, bổ sung nhiều.
Trong quá trình hoạt động, Quốc hội liên bang thực hiện “chức năng kép” không kém phần quan trọng là kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ liên bang, kể cả việc sử dụng Ủy ban điều tra của Quốc hội (Điều 44 LCB) - một công cụ hữu hiệu trong trường hợp thành viên Chính phủ liên bang vi phạm pháp luật. Tương ứng, quốc hội 16 bang trên toàn nước Đức kiểm soát quyền lực chính phủ của các bang.
Để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, năm 2021 Quốc hội liên bang Đức biên chế đến 4.500 cán bộ đảm nhận công việc thư ký, kỹ thuật, phục vụ cùng với 1.700 cộng tác viên khoa học; như vậy, số lượng này gần gấp 10 lần số nghị sĩ quốc hội!
Tại CHLB Đức, vốn từ lâu đã thành thông lệ: đảng đối lập trong Quốc hội liên bang thực hiện công bố kết quả kiểm tra, giám sát Chính phủ liên bang trước công luận. Phương thức này thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch.
Hội đồng liên bang
Hội đồng liên bang có 69 thành viên, là “quốc hội của chính phủ các bang” đại diện cho vhính phủ 16 bang trên toàn nước Đức; có quyền tham gia vào quy trình lập pháp liên bang và các công việc của Liên minh châu Âu. Số lượng thành viên mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số của bang, dựa trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” để tất cả các bang đều có đại diện.
Ủy ban hỗn hợp
Ủy ban hỗn hợp giữa Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang gồm 48 thành viên (tỷ lệ 2/3 và 1/3) theo quy định tại Điều 53 LCB. Ủy ban hỗn hợp có vai trò và ý nghĩa to lớn, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp cả nước có chiến tranh và Quốc hội liên bang không thể nhóm họp kịp thời. Việc thành lập và thủ tục của Ủy ban hỗn hợp được quy định trong Quy chế làm việc do Quốc hội liên bang ban hành, tuy nhiên cần được sự đồng thuận của Hội đồng liên bang.
Chính phủ liên bang
Ngày 08/12/2021, Chính phủ CHLB Đức gồm Thủ tướng Chính phủ và 16 bộ được thành lập, trong đó có 7 nữ bộ trưởng, được cơ cấu từ liên minh 3 đảng phái chính trị: Đảng Dân chủ xã hội (trong đó có Thủ tướng Chính phủ), Đảng Xanh (trong đó có Phó Thủ tướng) và Đảng Dân chủ tự do. Qua đó cho thấy năng lực, vai trò của phụ nữ trong chính phủ mới tiếp tục được kế thừa và phát huy, sự bình đẳng giới được thể hiện rõ nét. Thủ tướng Chính phủ là người thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lại là thành viên thuộc Đảng Xanh…
Một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức
Ở CHLB Đức, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong LCB là “bất di bất dịch”, có hiệu lực vĩnh viễn, không bị thay đổi, cho dù có sửa đổi Hiến pháp hoặc các đạo luật có liên quan.
Nguyên tắc phân chia quyền lực
Với CHLB Đức, phân chia quyền lực theo nghĩa rộng ở nhà nước liên bang và nghĩa hẹp ở nhà nước các bang là nguyên tắc được đề cao. Vấn đề là ở chỗ, phân chia như thế nào để phù hợp, sử dụng và kiểm soát tốt quyền lực, tránh vượt quyền, lạm quyền, tham nhũng, nửa vời, qua đó tập trung sức mạnh quyền lực nhà nước để xây dựng, phát triển đất nước, xã hội văn minh, giàu đẹp.
Nhà nước pháp quyền phải là thiết chế được phân chia quyền lực theo quy định tại khoản 2 Điều 20 LCB: lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó gắn lập pháp vào trật tự pháp luật phù hợp với Hiến pháp, gắn hành pháp và tư pháp vào các đạo luật và các quy định pháp luật khác (khoản 3 Điều 20 LCB).
Ngoài ra, CHLB Đức là Nhà nước liên bang nên sự phân chia quyền lực cũng trải đều từ trung ương (cấp liên bang) đến 16 bang với những yếu tố tự nhiên, xã hội, môi trường… không giống nhau. Tòa án Hiến pháp liên bang giải quyết các vụ tranh chấp hiến pháp để bảo vệ sự phân cấp, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang đã được LCB (Điều 30) bảo đảm.
Điều 20 và Điều 28 LCB 1949 quy định một số nguyên tắc cơ bản của NNPQ CHLB Đức. Hiến pháp của 16 bang nước Đức cũng quy định các nguyên tắc hiến định tương ứng. Cho dù có sửa đổi, bổ sung LCB và hiến pháp các bang thì những nguyên tắc cơ bản đó cũng không bị xóa bỏ, không được thay đổi (khoản 3 Điều 79 LCB).
Có thể nói, việc phân chia quyền lực nêu trên là phương thức hữu hiệu nhất để kiểm soát tốt quyền lực lẫn nhau giữa ba “trụ cột” trong một NNPQ và cũng là phương thức tối ưu nhất để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đưa ra những quyết định đúng đắn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật… cho đất nước.
CHLB Đức duy trì “chiến lược nhìn xa, trông rộng”: ngay trong các cơ quan hiến pháp ở cấp cao nhất liên bang thì việc phân chia quyền lực là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cơ cấu, tổ chức. Phân chia quyền lực tạo điều kiện cho cân bằng và kiểm soát tốt quyền lực; xin nêu ví dụ: trong Quốc hội liên bang, tuy Đảng Xã hội dân chủ có số lượng nghị sĩ đông nhất nhưng không vì thế mà đảng này độc quyền lãnh đạo.
Bộ máy nhà nước cũng cần được tinh giản: Phó Tổng thống liên bang do thủ hiến 16 bang thay đổi luân phiên hàng năm (nhiệm kỳ 1 năm) sau khi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng liên bang; Phó Thủ tướng Chính phủ liên bang cũng vậy, chỉ có một mà thôi.
Bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc xuyên suốt của NNPQ liên bang, dân chủ và xã hội CHLB Đức là các cơ quan quyền lực nhà nước phải bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Chính phủ liên bang cũng như chính phủ các bang cũng là những chủ thể pháp luật; trong trường hợp vi phạm, bị khởi kiện trước tòa án cũng chỉ là “đương sự”. Người dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật; được trao các cơ hội ngang bằng trong đời sống xã hội là quy định mang nhiều ý nghĩa (Điều 33 LCB).
Trong trường hợp quyền cơ bản của người dân bị cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm, người đó có thể khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp liên bang hoặc tòa án hiến pháp bang để được bảo vệ theo khoản 1 Điều 1 và khoản 4 Điều 19 LCB.
Trong nền kinh tế thị trường xã hội cần được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tự do thương mại, bảo đảm sở hữu tư nhân, bình đẳng giữa các hãng, doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ, không có sự can thiệp của nhà nước; tuy nhiên, nhà nước phải hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện tốt cho kinh tế phát triển.
Xây dựng trật tự pháp luật thống nhất, hợp hiến và có hiệu quả
Trong NNPQ, khi pháp luật giữ vị trí độc tôn, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất trên cơ sở tôn trọng và phù hợp hiến pháp (LCB) và trật tự pháp luật nói chung, đầy đủ, đồng bộ cả về luật nội dung và luật thủ tục là yếu tố quan trọng, hơn nữa hệ thống pháp luật phải được bảo đảm thực thi có hiệu quả. Ở trung ương - Bộ Tư pháp liên bang, ở địa phương - Bộ Tư pháp các bang được giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ này. Trong cùng một vấn đề cần giải quyết thì ưu tiên áp dụng luật liên bang (Điều 31 LCB).
Tính độc lập của tư pháp
Tính độc lập tuyệt đối của các cơ quan tư pháp là mắt xích quan trọng trong guồng máy hoạt động nhịp nhàng của nhà nước pháp quyền CHLB Đức, đặc biệt là tòa án phải đặt nhiệm vụ bảo vệ người dân trước các hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền lên hàng đầu. LCB, các luật tổ chức tòa án là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết những vi phạm do cơ quan nhà nước gây ra (khoản 4 Điều 19 LCB). Thẩm phán có quyền giải thích luật, độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật (Điều 97 LCB), cơ chế tổ chức hoạt động tự do, độc lập và tự quản của các đoàn luật sư.
Cái hay của quy trình đào tạo thống nhất thẩm phán, luật sư, công tố viên, công chứng viên từ 8 đến 9 năm của CHLB Đức đã tạo nên một đội ngũ cử nhân luật “đa năng”, có thể đảm nhận được công việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Hoạt động Chính phủ liên bang gắn liền với pháp luật
Định hướng, hoạch định chính sách đúng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Trước Quốc hội liên bang, các nghị sĩ phải được thông tin đầy đủ về các quyết định đó để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm soát Chính phủ (khoản 1 Điều 43 LCB).
Một số thành quả của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức
Về kinh tế
Với mô hình kinh tế thị trường xã hội đã trải qua nhiều thập kỷ, CHLB Đức là một cường quốc kinh tế vững mạnh, luôn được nhìn nhận là “đầu tàu” kể từ khi thành lập Liên minh châu Âu (01/11/1993), hiện xếp thứ tư thế giới, nhiều năm là nước xuất khẩu hàng hóa thuộc loại lớn nhất và thứ ba thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Chất lượng hàng hóa, sản phẩm xuất xứ từ CHLB Đức là chủ đề mà người tiêu dùng trên toàn thế giới quan tâm. Theo kết quả thăm dò mới nhất của Viện nghiên cứu đánh giá quan điểm YouGov thuộc Trường Đại học tổng hợp Cambrige (Anh) của người tiêu dùng tại 23 quốc gia trên thế giới thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa “Made in Germany” vẫn là số 1 thế giới, trên cả Ý, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Về chính trị, ngoại giao
Mô hình NNPQ liên bang dân chủ và xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB 1949 được xây dựng, phát triển toàn diện và hiệu quả, khẳng định sự đúng đắn, phù hợp.
Là 1 trong 7 nước thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU) và Khu vực đồng Euro (Eurozone), thành viên của Liên hợp quốc (UNO), Khối Bắc đại tây dương (NATO), Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), Ngân hàng thế giới (WB), Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). CHLB Đức là nhà tài trợ lớn; “gánh” 20% tài chính cho Liên minh châu Âu, đứng thứ 3 thế giới về đóng góp cho Liên hợp quốc.
CHLB Đức được nhiều nước thừa nhận có tầm ảnh hưởng lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế gay cấn; có hệ thống chính trị được đánh giá là vững mạnh, trong sạch; chính vì vậy, tham ô, tham nhũng, lạm dụng quyền lực ít có cơ hội phát sinh.
Về khoa học kỹ thuật, công nghệ
Cộng hòa liên bang Đức là xứ sở của phát minh và các kỹ thuật nổi tiếng “Land of Ideas”, đứng đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghiệp và công nghệ; là nơi phát minh ô tô và là quê hương của ô tô hiện đại, sang trọng. Như chúng ta thường thấy, hầu hết các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều ưa chuộng sử dụng xe Mercedes hoặc BMW chống đạn. Hàng năm, hàng triệu fan “say tốc độ” trên khắp thế giới sẽ đến Đức để thử nghiệm “tay lái lụa” vì đây là nơi duy nhất không hạn chế tốc độ trên đường cao tốc.
Về giáo dục, đào tạo
Hệ thống giáo dục phổ thông, đại học của CHLB Đức có uy tín trên thế giới.
Theo US - New and World Report năm 2021, Trường Đại học tổng hợp Humboldt Berlin là trường được thành lập khá sớm (1810), là hình mẫu cho các nước châu Âu và phương Tây, có hiệu quả nghiên cứu học thuật và danh tiếng xếp thứ 4 ở Đức, nơi đào tạo ra nhiều thiên tài và nhà tư tưởng vĩ đại của Đức và thế giới như Albert Eínstein, Karl Marx, Johann Gotlieb Fichte, Robert Koch… Theo thời gian, các nhà khoa học trưởng thành từ Trường này đã giành được 55 giải thưởng Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học và y học.
Là nước có chế độ học tập miễn phí từ cấp phổ thông cơ sở đến đại học, CHLB Đức thu hút hàng triệu học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh từ nhiều nước trên thế giới đến học tập, nghiên cứu.
Theo Tổ chức thống kê Mikrozensur của CHLB Đức, năm 2019 nước Đức có 862.000 người (chiếm 1,2% dân số cả nước) có học vị tiến sĩ trong các lĩnh vực khoa học, trong đó bao gồm cả đội ngũ giáo sư hùng hậu, phần lớn giảng dạy trong 426 trường đại học tổng hợp, đại học và đại học chuyên ngành, hàng ngàn viện nghiên cứu cũng như làm việc tại Tòa án Hiến pháp liên bang và Tòa án Hiến pháp của 16 bang trên cả nước với cương vị thẩm phán.
Về truyền thông, báo chí
Cộng hòa liên bang Đức, với vị thế đứng thứ 5 thế giới (báo và báo điện tử có lượng lưu hành lớn nhất thế giới) có 340 nhật báo, 17 tuần báo và 1.600 tạp chí các loại nên hầu hết các cơ quan đều có trung tâm báo chí công khai (đất nước của tự do báo chí) nên dư luận công chúng mạnh mẽ, góp phần xây dựng tinh thần trong đời sống xã hội.
Về thể thao, du lịch
Cộng hòa liên bang Đức là cường quốc thể thao, 4 lần vô địch thế giới, 3 lần vô địch châu Âu về bóng đá nam; 2 lần vô địch thế giới, 8 lần vô địch châu Âu về bóng đá nữ, có hơn 24 triệu thành viên, trong đó 3 triệu cầu thủ bóng đá (170.000 đội bóng) chơi trong 24.000 câu lạc bộ.
Đất nước này với những “lâu đài cổ tích” tuyệt đẹp (Neuschwanstein, Sanssouci, Hohenschwangau, Moritzburg…), nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được xếp hạng thứ 9 thế giới về du lịch là điểm cuốn hút gần 38 triệu du khách mỗi năm.
Hàng năm, “Lễ hội bia tháng Mười” nổi tiếng tại thành phố Muenchen cuốn hút 8 đến 10 triệu du khách trong nước và quốc tế. Đức là nước sản xuất hơn 5.000 loại bia và nhiều năm đứng đầu thế giới về xuất khẩu thức uống yêu thích này.
NGUYỄN QUANG DU
Tòa án Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức
5.

