Phần đất tranh chấp được đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ giải quyết.
Nguồn gốc thửa đất
Theo nội dung khởi kiện của ông Phan Thế Sắn (trú tại khu khố Bắc Nam, phường Trường Sơn, TP. Sầm Sơn), trong khoảng thời gian từ năm 1973 đến năm 1981, bố của ông là cụ Phan Thế Nụ (đã mất) cho Hợp tác xã Nông nghiệp Ngọc Sơn và Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn mượn đất để xây dựng công trình phúc lợi (nhà mẫu giáo và nhà máy xay xát). Tuy nhiên, việc mượn đất không lập thành văn bản nhưng những người trong ban mượn đất của Hợp tác xã còn sống đều thừa nhận có sự việc mượn đất này và nguồn gốc đất mượn là của cụ Nụ.
Năm 1985, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn bàn giao lại cho Hợp tác xã Thủ công nghiệp Sơn Quang tiếp tục sử dụng. Trước khi giải thể năm 1995 thì năm 1993, Hợp tác xã Thủ công nghiệp Sơn Quang bán thanh lý phần tài sản trên đất mượn của cụ Nụ là 4 gian nhà cấp 4 cho ông Hà Văn Vinh (bố của bà Hà Thị Lai) vật liệu rui mè, cửa sổ… Sau đó, ông Vinh không tháo dỡ tài sản thanh lý mà vẫn sử dụng, sau khi ông Vinh mất, bà Lai tiếp tục sử dụng và cho thuê đến hiện nay.
Theo hồ sơ địa chính 229, thửa đất tranh chấp là thửa số 26, tờ bản đồ số 01, diện tích 105m2, chủ sử dụng mang tên Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn. Hồ sơ địa chính 382 lập năm 1995 là thửa 144 (do gộp 2 thửa 204 và 206 thửa đất của ông trong hồ sơ 299), tờ bản đồ số 15, diện tích 829m2, chủ sử dụng ghi chú thích: Khu đất đang tranh chấp.
Đến năm 2010, trong sổ mục kê ruộng đất ghi nhận phần đất tranh chấp là thửa số 77, tờ bản đồ số 45, tên chủ sử dụng là Hà Văn Vinh, diện tích 66,3m2, sau khi ông Vinh mất thì bà Lai tiếp tục sử dụng đất và nhà cho đến nay. Khẳng định nguồn gốc đất trên là của gia đình mình, nên ông Sắn đã làm đơn khởi kiện đề nghị TAND TP. Sầm Sơn giải quyết buộc bà Lai phải tháo dỡ tài sản trên đất, trả lại quyền sử dụng 66,3m2, thuộc thửa số 77, tờ bản đồ số 45 tại khu phố Bắc Nam cho gia đình ông.
Trong khi đó, theo bà Lai, năm 1993, bố bà có mua lại của Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn 4 gian nhà cấp 4 đã hỏng và được quyền sử dụng 68m2 đất, khi mua có giấy tờ mua bán. Quá trình sử dụng, gia đình bà nhiều lần sang sửa, hàng năm vẫn nộp thuế đất cho nhà nước nên việc ông Sắn khởi kiện đòi đất, bà không đồng ý.
Viện Kiểm sát đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án
Ngày 01/7/2021, TAND TP. Sầm Sơn đã đưa vụ kiện Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Phan Thế Sắn và bị đơn bà Hà Thị Lai ra xét xử và quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định diện tích đất tranh chấp là của gia đình cụ Phan Thế Nụ (bố ông Sắn). Buộc bà Lai, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Hà Thị Xuân phải giao lại diện tích đất tranh chấp 52,3m2, tại thửa 206, tờ bản đồ số 01, hồ sơ địa chính 229 đo năm 1984 (nay là thửa số 77, tờ bản đồ số 45, hồ sơ địa chính 2010) tại khu phố Bắc Nam cho ông Sắn.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP. Sầm Sơn tham gia phiên tòa xác định, trước đó, ngày 16/7/2013 Chủ tịch UBND thị xã Sầm Sơn đã ban hành Quyết định số 1458 giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Sắn với nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của ông Sắn. Ngày 18/3/2014, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định số 719 giải quyết khiếu nại lần 2, giữ nguyên Quyết định 1458. Cả hai quyết định được đề cập trong hồ sơ vụ án, việc ông Sắn kiện đòi lại đất đã được giải quyết bằng quyết định hành chính, có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn. Tuy nhiên, quan điểm này của Viện Kiểm sát đã không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Trong khi đó, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là UBND phường Trường Sơn cho rằng, trước thời điểm năm 1980, UBND phường không có tài liệu, sổ sách lưu giữ về đất đai đối với thửa đất tranh chấp… Đến thời điểm khoảng tháng 12/1980, khi lập hồ sơ địa chính 229 thì Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn đang quản lý, sử dụng làm nhà mẫu giáo và sau đó làm nhà máy xay xát lúa. Sau đó, Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn chuyển giao cho Hợp tác xã Thủ công nghiệp Sơn Quang sử dụng, đến năm 1993 thì bán thanh lý tài sản trên đất cho ông Vinh, khi Hợp tác xã Thủ công nghiệp Sơn Quang giải thể thì đất do UBND phường quản lý.
Còn theo hồ sơ địa chính 229 thì thửa đất của gia đình cụ Nụ là thửa số 204, tờ bản đồ số 01, diệc tích 640m2 đứng tên ông Sắn, còn thửa đất tranh chấp là thửa 206, tờ bản đồ số 01, diện tích 105m2 đứng tên Hợp tác xã Nông nghiệp Hợp Sơn. Việc ông Sắn khởi kiện đòi diện tích đất tại thửa 206, tờ bản đồ số 01 là không có căn cứ vì gia đình ông Sắn không có giấy tờ nào đứng tên trong sổ sách. Mặt khác theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật Đất đai 2013 thì nhà nước không thừa nhận việc đồi lại đất đã được giao theo quy định của nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai.
Cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chấp thiếu khách quan, chưa xem xét toàn diện, thỏa đáng các tình tiết, chứng cứ của vụ án, bà Lai đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
QUỲNH CHI