/ Hồ sơ - Tư liệu
/ Thầy đồ Làng Bo

Thầy đồ Làng Bo

17/11/2025 09:28 |

(LSVN) - Thầy đồ làng Bo đã ra đi không có nấm mồ, không để lại một tấm hình, không một tấm Bằng ghi công chống giặc, hay một bản xác nhận lòng yêu nước, vì cụ không có tên trong một tổ chức nào của ta. Âu cũng là thân phận, nghĩa vụ công dân của những nhà giáo yêu nước dưới thời đế quốc, phong kiến. Họ tự thức cống hiến, đấu tranh và lặng lẽ hi sinh. Nhưng người làng Bo, các thế hệ học trò của cụ đã thành đạt ở nhiều nơi vẫn tự hào là học trò của “Thầy đồ làng Bo”. Thế hệ hậu sinh, là con cháu cụ thì vẫn luôn nhớ cụ, luôn kể cho nhau nghe về một người thầy khả kính của quê hương mỗi khi có dịp.

Tên thầy là Phạm Đình Lâu, dân làng Bo thường gọi là “Thầy đồ Lâu”, hay “Thầy đồ Làng Bo”. Những năm đầu thế kỷ XX, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp cùng chế độ phong kiến, làng Bo cũng như làng quê Việt Nam sống trong tăm tối đủ thứ, nhất là không được học hành chữ nghĩa. Cụ Phạm Đỉnh Lâu là người ở làng Bo, xã Duy Tân, phủ Thái Ninh, Thái Bình (cũ), đứng ra “bảo học” cho dân làng. Xuất thân trong một dòng họ đồng tâm khai khẩn cồn đất sình lầy, hoang hóa trước cửa Kỳ Bố Hải Khẩu năm 1828 (Cửa biển Kỳ Bố), lập thành làng Bo, nên cụ luôn có truyền thống, ý chí vươn lên. Cụ lên Hà Nội học và đỗ bằng “Cử nhân kinh tế Đông Dương”. Cụ được bổ nhiệm làm một chức quan trong Ty Ngân khố Thái Bình. Là thanh niên kẻng trai, có chữ nghĩa, tính tình hoạt bát, phóng khoáng, giao du rộng rãi, nên cụ lọt vào tầm ngắm của ông Nghị Luận, tỉnh trưởng Thái Bình, và được ông gán gả bà chị gái ruột, kèm theo 50 mẫu ruộng tư điền làm quà hồi môn.

Sớm nhận ra bản chất xã hội đương thời đầy những bất công, quan tỉnh, quan huyện làm tay sai cho quan Tây, lấy tiền trong ngân khố nhà nước để tiêu pha, hối lộ, bỏ túi cá nhân vô tội vạ, nên cụ khinh ghét, bỏ không làm việc cho chúng. Những năm đầu của thế kỷ trước, cụ về làng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cùng chữ Nôm. Do tính tình khí khái, có chữ nghĩa, nên cụ được dân tin tưởng gửi trao, mời cụ lại đứng ra nhậm chức Lý trưởng. Vốn có bản tính cấp tiến, tôn sùng thần tượng Trung liêm Nguyễn Công Trứ, tôn sùng phong trào yêu nước của cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Đình Chiểu, nên cụ bị bọn tay sai cường hào ác bá tại quê kích động dư luận, bài bác, o ép. Họ vu oan, đổ tiếng xấu cho cụ đủ điều. Là kẻ sĩ, cụ đã ngang nhiên trả triện, từ chức Lý trưởng. Trong một buổi lễ giỗ tổ đầu xuân của họ Phạm Đình tại làng Bo, cụ đứng trước Từ đường dòng tộc, khảng khái răn dạy con cháu: “Cấm con cháu lai vãng, tơ vương chức tước của triều chính phong kiến, đế quốc, không làm quan cho bọn bóc lột nhân dân”. Tiếng tăm, tài đức của cụ từ đó lan ra khắp vùng, nên nhiều gia đình trong phủ, trong tỉnh đã trao con, gửi cháu theo học cụ. Học trò đến học được cụ nuôi ăn, nuôi ở tại gia. Cụ dùng “Nhân – Nghĩa – Trí – Dũng - Liêm” trong giáo dục đương thời làm tiêu chí, lấy truyền thống “Tiên học lễ, hậu học văn” làm phương châm để răn dạy học trò. Cùng với việc dạy chữ nghĩa, đạo lý hiếu trung, thương dân, yêu nước, cụ uốn nắn nề nếp, gia phong, kính trên, nhường dưới cho học trò. Tiền, gạo nuôi nho sinh lúc đầu lấy từ nguồn thu từ 50 mẫu tư điền “của hồi môn” mà ông Nghị Luận đã trao tặng khi cưới chị gái ông. Sau đận bất hòa về tư tưởng, cụ tức khí trả lại tất. Lúc này, không có nguồn tài chính để trang trải nuôi học trò, cụ cùng học trò “học đi đôi với hành” ra đồng cầy, cuốc, cấy trồng để có lương thực. Cùng với việc hỗ trợ thù lao từ gia đình học trò và họ tộc sau mỗi mùa gặt bằng một vài thúng thóc, vài bao khoai hoặc dăm lít rượu trắng đựng trong bong bóng trâu khô, thầy trò “Cụ đồ làng Bo” vẫn ổn định để học hành, rèn dũa nhân cách.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Một số học trò của cụ sau này đã lặng lẽ, bí mật tìm đường đi theo Cách mạng. Nhiều người đã góp công lớn cho đất nước. Trong đó có những ông như: Nguyễn Văn Tuynh - Sĩ quan tình báo quân đội vào Nam hoạt động cho đến ngày đất nước toàn thắng. Ông Trần Văn Nghĩa lên Hà Nội tham gia chống Pháp, bị Pháp bắt giam tại nhà tù Sơn La rồi hy sinh tại đây. Ông Trần Văn Lai, là sĩ quan tình báo quân đội, vào Nam làm “Nhà thầu khoán Dinh Độc Lâp”. Tại nhà riêng, ông Lai đã làm hầm bí mật chứa vũ khí phục vụ cho Tổng tấn công Mậu Thân của quân và dân ta. Ông Phạm Văn Nĩu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Đông Ninh, tỉnh Thái Bình (cũ). Ông Phạm Đình Hinh vào bộ đội chống Pháp, giữ chức Lữ đoàn trưởng Công binh. Ông Nguyễn Công Tạc theo Kháng chiến, sau làm Hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội…

Bố tôi – ông Phạm Đình Củng là cháu đích tôn và cũng là học trò của cụ Đồ Lâu. Cũng nhờ học cụ mà ông đã trưởng thành, đi theo Cách mạng, vào Đảng, trở thành du kích chống Pháp, rồi Công an xã tại địa phương. Cũng nhờ học cụ, qua giao lưu nhóm bạn bè yêu nước mà bố tôi gặp được mẹ tôi người làng Đông Trì - Bà là Trần Thị Hòa, con cụ Trần Văn Tỵ, một thương gia, người cùng nhóm bạn bè yêu nước làng Đông Trì với “Thầy đồ làng Bo”.

Năm Tân Mão (1951), sau vụ quân ta giải thoát gần 50 cán bộ, nhân dân bị địch bắt, giam cầm tại bốt Cầu Bo, Thái Bình (cũ), do có kẻ chỉ điểm cùng với sự nghi vấn cụ Đồ Lâu là Việt Minh nằm vùng, cụ đã có tên trong danh sách “Đơ B” – phòng nhì Pháp (Sách ghi: Học trò của Phạm Đình Lâu toàn bộ đi theo Việt Minh…), vào ngày 23 tháng Chạp, lính Pháp đã chia thành hai mũi, tiến vào làng Bo để bắt cụ. Biết được âm mưu càn quét của địch trong dịp Tết, ba du kích của ta là ông Râm, ông Củng, ông Bịch đã gài mìn ở hai cầu đá, lối vào của hai đầu làng. Nhưng khi địch tới, du kích giật mìn, thì mìn lại không nổ. Địch lội ruộng xông vào làng, vây chặt nơi cụ đồ thường dạy học là từ đường họ Phạm Đình. Ba du kích nhanh chân kịp xuống hầm bí mật, an toàn. Thầy đồ Làng Bo vẫn bình thản, ung dung ngồi đọc sách và đối thoại lý lẽ với địch. Lính Pháp truy xét, hỏi cụ về người gài mìn. Cụ trả lời không biết. Chúng chẳng cần nghe lời lẽ “ong đơ” gì mà bắt giữ luôn cụ cùng bộ khay, tráp hành nghề của người thầy. Chúng lôi cụ ra bốt Cầu Bo, tra tấn suốt ngày đêm, rồi đánh cụ đến chết, vất xác xuống sông Trà Lý để phi tang.  

Thầy đồ làng Bo đã ra đi không có nấm mồ, không để lại một tấm hình, không một tấm Bằng ghi công chống giặc, hay một bản xác nhận lòng yêu nước, vì cụ không có tên trong một tổ chức nào của ta. Âu cũng là thân phận, nghĩa vụ công dân của những nhà giáo yêu nước dưới thời đế quốc, phong kiến. Họ tự thức cống hiến, đấu tranh và lặng lẽ hi sinh. Nhưng người làng Bo, các thế hệ học trò của cụ đã thành đạt ở nhiều nơi vẫn tự hào là học trò của “Thầy đồ làng Bo”. Thế hệ hậu sinh, là con cháu cụ thì vẫn luôn nhớ cụ, luôn kể cho nhau nghe về một người thầy khả kính của quê hương mỗi khi có dịp.

Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, xin cảm ơn các thế hệ thầy, cô giáo đã góp công lớn cho đất nước, cho cho ngày hòa bình, độc lập, cho cánh đồng vàng bát ngát, trĩu bông, nặng hạt hôm nay.

Tiến sĩ, Luật sư PHẠM HUỲNH CÔNG

(Viết tặng các thầy, cô giáo nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam).