Ảnh minh họa.
Theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết: Theo quy định pháp luật về tố tụng hình sự ở nhiều nước châu Âu hiện nay thì có quy định bị can hoặc người nhà bị can nộp tiền bảo đảm là sẽ không bị bắt giam trong quá trình tố tụng. Pháp luật còn quy định Luật sư được quyền bảo lãnh cho thân chủ của mình trong một số trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng.
Ở nhiều tiểu bang tại Mỹ, mức tiền bảo lãnh được luật quy định sẵn cho từng loại tội phạm. Dù vậy trên thực tế bị can, bị cáo nghi vấn giết người thường bị từ chối cho tại ngoại. Nếu có, mức tiền bảo lãnh cũng được đặt ở mức cao nhất là một triệu USD và chỉ sau được khi thẩm phán vụ việc đã xem xét kỹ lưỡng.
Quy định "đặt tiền để bảo đảm" trong tố tụng hình sự để một bị can đang tạm giam được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những nội dung mới được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và đến nay đã có 02 có Thông tư hướng dẫn. Tuy nhiên trên thực tiễn thì ít cơ quan tố tụng áp dụng quy định này bởi nhiều nội dung còn chưa rõ ràng, một số nội dung còn nhiều cách hiểu khác nhau và việc liên quan đến tiền bạc sẽ rất nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực hoặc những suy nghĩ tiêu cực gây ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng. Do quy định mới, còn có những cách hiểu và quan điểm khác nhau cho nên các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng theo thói quen hai hình thức chủ yếu là tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú, nếu thay đổi thì sẽ áp dụng biện pháp bảo lĩnh chứ không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tiền.
Thực tế, biện pháp đặt tiền để bảo đảm là biện pháp được áp dụng khá phổ biến ở nhiều quốc gia châu Âu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp đều có thể áp dụng biện pháp này. Biện pháp đặt tiền để bảo đảm chỉ có thể được áp dụng đối với một số vụ án hình sự thuộc tội ít nghiêm trọng, tình tiết rõ ràng và có căn cứ cho thấy bị can không tiếp tục phạm tội, không bỏ trốn, không cản trở hoạt động điều tra... Nhiều quốc gia quy định trình tự thủ tục, căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm rất rõ ràng, minh bạch, có sự giám sát để tránh tiêu cực, tránh lạm quyền và đảm bảo tính khả thi, thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo quy định pháp luật.
Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm như sau: Trường hợp Cơ quan điều tra quyết định cho bị can hoặc người thân thích của bị can được đặt tiền để bảo đảm, thì ngay sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu gửi Viện Kiểm sát cùng cấp đề nghị xét phê chuẩn.
Pháp luật Việt Nam cũng quy định bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; Không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm.
Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Điều 22 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định: Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.
- Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng VKSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.
Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm gồm:
- Văn bản đề nghị xét phê chuẩn và quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm;
- Chứng cứ, tài liệu thể hiện tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can;
- Tài liệu xác định bị can hoặc người thân thích của bị can đã đặt tiền để bảo đảm;
- Giấy cam đoan của bị can về việc cam đoan thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
- Giấy cam đoan của người thân thích của bị can theo quy định tại khoản 5 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đối với trường hợp người thân thích của bị can đặt tiền để bảo đảm.
Thủ tục đề nghị xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm:
- Giai đoạn 1: Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hoặc có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để xét phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
- Giai đoạn 2: Khi có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo các tài liệu xác định vi phạm của bị can và đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt bị can để tạm giam và có văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn; thời hạn tạm giam trong trường hợp này không được quá thời hạn điều tra vụ án.
- Giai đoạn 3: Trường hợp Viện Kiểm sát có căn cứ xác định bị can vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục hủy bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm và áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 4 Điều .
- Giai đoạn 4: Trường hợp đã kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, Viện Kiểm sát thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Thời hạn đặt tiền để bảo đảm không quá thời hạn quyết định việc truy tố, tính từ ngày kế tiếp của ngày cuối cùng ghi trong quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm của Cơ quan điều tra.
Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để đảm bảo mức cao nhất là 300.000.000 đồng và phải thuộc trường hợp có thể áp dụng biện pháp này chứ không phụ thuộc vào việc gia đình bị can có thể nộp được nhiều tiền hay không.
TIẾN HƯNG