/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật - Giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng

Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật - Giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng

09/11/2025 07:40 |

(LSVN) - Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, Ngày Pháp luật Việt Nam lần thứ 13 (09/11/2025) không chỉ là sự kiện pháp lý định kỳ mà mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, trùng với giai đoạn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng tới Đại hội XIV - sự kiện trọng đại nhất của Đảng trong nhiệm kỳ. Đại hội này được kỳ vọng định hình định hướng chiến lược đột phá cho xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên số, đối mặt thách thức an ninh mạng, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, đòi hỏi hệ thống pháp luật vững mạnh, minh bạch, hiệu quả [1].

1. Mở đầu

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, Ngày Pháp luật Việt Nam lần thứ 13 (9/11/2025) không chỉ là sự kiện pháp lý định kỳ mà mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, trùng với giai đoạn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hướng tới Đại hội XIV - sự kiện trọng đại nhất của Đảng trong nhiệm kỳ. Đại hội này được kỳ vọng định hình định hướng chiến lược đột phá cho xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên số, đối mặt thách thức an ninh mạng, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, đòi hỏi hệ thống pháp luật vững mạnh, minh bạch, hiệu quả [1].

Việc tôn vinh “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” vượt khỏi khuôn khổ lễ truyền thống, trở thành biểu hiện sống động của niềm tin chính trị vào đường lối Đảng, kỷ cương pháp lý nghiêm minh, và trí tuệ tập thể vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng NNPQ “của dân, do dân, vì dân” - như Hiến pháp 2013 hiến định tại Điều 2, khẳng định bản chất dân chủ, nhân dân làm chủ và pháp luật là công cụ tối thượng bảo vệ quyền lợi nhân dân [2].

Nguyên tắc này là nền tảng lý luận cốt lõi trên cơ sở triết học duy vật biện chứng, coi pháp luật là sản phẩm ý chí nhà nước đại diện lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV, nguyên tắc càng cấp thiết trước biến động từ cách mạng 4.0, biến đổi khí hậu, rủi ro địa chính trị, đòi hỏi củng cố pháp luật như “lá chắn” bảo vệ chủ quyền, ổn định xã hội và phát triển bền vững [3].

Bài viết tập trung làm rõ ba nội dung cốt lõi: (i) Cơ sở tư tưởng của nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng, đặc biệt Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng NNPQ XHCN; (ii) Cơ sở thực tiễn, đánh giá thành tựu và hạn chế trong thực thi nguyên tắc này từ sau Hiến pháp 2013, bao gồm cải cách tư pháp, chống tham nhũng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; (iii) Yêu cầu củng cố nguyên tắc trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV, với giải pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp và giáo dục pháp luật, nhằm khẳng định NNPQ XHCN Việt Nam là giá trị cốt lõi, bất biến trong bối cảnh mới [4].

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

1.1. Bối cảnh lịch sử và ý nghĩa chính trị - pháp lý của Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11/2025

Ngày 09/11/2025 đánh dấu Ngày Pháp luật Việt Nam lần thứ 13, được quy định tại Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật 2012, nhằm nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật toàn xã hội [5]. Sự kiện trùng với giai đoạn tiền Đại hội XIV (dự kiến đầu năm 2026), nơi Báo cáo chính trị nhấn mạnh “xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hoạt động hiệu quả, hiệu lực” là nhiệm vụ then chốt [6]. Ý nghĩa chính trị - pháp lý vượt khỏi kỷ niệm, trở thành dịp tổng kết, đánh giá và định hướng thực thi Hiến pháp 2013 - văn kiện pháp lý tối cao, khẳng định tại Điều 4 vai trò lãnh đạo của Đảng trong đảm bảo thượng tôn pháp luật.

1.2. Khái niệm và nội hàm cốt lõi của “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” trong NNPQ XHCN Việt Nam

Từ góc độ lý luận Luật học, “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” được hiểu là nguyên tắc tối cao trong hệ thống pháp luật, theo đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, và mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (Điều 119 Hiến pháp 2013). Nội hàm cốt lõi bao gồm: (i) Hiến pháp là nền tảng ý chí nhân dân, thể hiện qua cơ chế lập hiến dân chủ; (ii) Pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, đảm bảo công bằng, bình đẳng và quyền con người; (iii) Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không có đặc quyền ngoại lệ [7]. Trong mô hình NNPQ XHCN, nguyên tắc này khác biệt với mô hình tư bản chủ nghĩa ở chỗ nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp giữa pháp trị và đức trị, nhằm phục vụ lợi ích nhân dân lao động [8].

1.3. Mục tiêu và phương pháp phân tích của bài viết

Bài viết nhằm phân tích sâu sắc, toàn diện nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật như giá trị cốt lõi, với phương pháp chính luận khoa học kết hợp lý luận - thực tiễn - dự báo. Cụ thể: sử dụng phương pháp lịch sử - logic để truy nguyên cơ sở tư tưởng; phương pháp thống kê - so sánh để đánh giá thực tiễn (ví dụ: số lượng văn bản pháp luật ban hành từ 2013 - 2025 đạt hơn 500 luật và pháp lệnh); phương pháp hệ thống để đề xuất yêu cầu, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với Văn kiện Đại hội XIV [9].

Qua đó, bài viết không chỉ khẳng định giá trị bất biến của nguyên tắc này mà còn góp phần định hướng dư luận, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam vững mạnh, sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới.

2. Cơ sở lý luận - chính trị của nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật

Nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là hệ thống lý luận biện chứng trên nền triết học duy vật lịch sử, được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong cách mạng Việt Nam. Nó thống nhất biện chứng giữa lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, được cụ thể hóa qua các văn kiện Đảng, đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội XIV – ngưỡng cửa kỷ nguyên số hóa và hội nhập sâu rộng. Việc củng cố cơ sở lý luận - chính trị này khẳng định tính chính danh của NNPQ XHCN Việt Nam, đồng thời là tiền đề khoa học định hướng giải pháp thực tiễn, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của Hiến pháp, pháp luật [10].

2.1. Tư tưởng Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về pháp quyền và công lý XHCN

2.1.1. Quan điểm của C.Mác về pháp luật như biểu hiện ý chí giai cấp và công cụ đấu tranh giai cấp

Trong lý luận Mác - Lênin, C.Mác phân tích pháp luật là hiện tượng thượng tầng kiến trúc, phản ánh cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội có giai cấp. Tại Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), Mác và Ăngghen khẳng định: “Pháp luật của các người chẳng qua là ý chí của giai cấp các người được nâng lên thành luật pháp, một ý chí mà nội dung do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các người quyết định” [11]. Trong xã hội XHCN - giai đoạn đầu của hình thái cộng sản chủ nghĩa - pháp luật không còn mang tính đối kháng giai cấp mà trở thành biểu hiện ý chí tập thể nhân dân lao động, được nhà nước vô sản thực thi nhằm xóa bất công, bảo vệ lợi ích chung và thúc đẩy công bằng xã hội. Quan điểm này đặt nền móng cho nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong NNPQ XHCN Việt Nam, nơi Hiến pháp 2013 khẳng định tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Do đó, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật chính là nâng ý chí nhân dân lao động lên chuẩn mực pháp lý tối cao, không cho phép bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào đứng ngoài hoặc trên pháp luật.

2.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về pháp chế XHCN như điều kiện tồn tại của chủ nghĩa xã hội

V.I.Lênin nâng tầm lý luận Mác về pháp luật lên thực tiễn cách mạng khi khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội không thể đứng vững nếu không có pháp chế” [12]. Trong Nhà nước và cách mạng (1917), Lênin phân tích nhà nước vô sản phải dùng pháp luật như vũ khí bảo vệ thành quả cách mạng, trấn áp phản động và xây dựng trật tự xã hội mới dựa trên dân chủ XHCN. Pháp luật XHCN cần ba yếu tố cốt lõi: (i) tính giai cấp phục vụ nhân dân lao động; (ii) tính dân chủ thực chất qua sự tham gia quần chúng; (iii) tính kỷ luật sắt trong thực thi. Quan điểm này được Đảng ta kế thừa, vận dụng xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV, khi pháp chế số trở thành nhiệm vụ cấp bách đối phó thách thức an ninh mạng và tội phạm công nghệ cao [13].

2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp biện chứng giữa “đức trị” và “pháp trị” trong quản trị quốc gia

Hồ Chí Minh đã Việt Nam hóa lý luận Mác - Lênin về pháp quyền khi khẳng định: “Quốc có Hiến pháp thì dân mới biết quyền lợi của dân, Chính phủ mới biết quyền hạn của Chính phủ” [14]. Người nhận thức rằng trong điều kiện nước nông nghiệp lạc hậu, xây dựng NNPQ phải kết hợp hài hòa pháp trị (thượng tôn pháp luật) và đức trị (giáo dục đạo đức cách mạng). Năm 1958, Người nhấn mạnh: “Cán bộ pháp luật phải làm gương về chấp hành pháp luật, phải gần dân, hiểu dân, giúp dân”. Tư tưởng này thể hiện rõ trong Hiến pháp 1946 - với tinh thần “Dân là chủ” và pháp luật là công cụ bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng này càng cấp thiết khi Đảng xác định chống tham nhũng, tiêu cực là “cắt bỏ ung nhọt” để bảo vệ kỷ cương pháp luật, như phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác tư pháp năm 2024.

2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNPQ XHCN và vị trí trung tâm của nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật

2.2.1. Diễn tiến quan điểm của Đảng từ Cương lĩnh 1991 đến Văn kiện Đại hội XIII

Quan điểm xây dựng NNPQ XHCN được Đảng ta hình thành và phát triển qua các kỳ đại hội, với mốc son là Cương lĩnh 1991 (bổ sung 2011), khẳng định: “Xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” [15]. Đến Đại hội XIII (2021), Đảng nâng tầm nhận thức: NNPQ XHCN phải “hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực hiệu quả” [1]. Nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là linh hồn của NNPQ, thể hiện rõ qua Chương XII Hiến pháp 2013 quy định các cơ quan tư pháp (Hội đồng bầu cử quốc gia, TAND, VKSND) hoạt động độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2.2.2. Nghị quyết số 27-NQ/TW (2022) - Văn kiện then chốt định hình mô hình NNPQ Việt Nam

Nghị quyết 27-NQ/TW (09/11/2022) về xây dựng NNPQ XHCN đã cụ thể hóa sáu đặc trưng cốt lõi, trong đó đặc trưng đầu tiên là: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” [16]. Nghị quyết nhấn mạnh cơ chế kiểm soát quyền lực giữa lập pháp - hành pháp - tư pháp: Quốc hội giám sát tối cao, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, TAND xét xử độc lập theo pháp luật. Đặc biệt, đến năm 2030 phải hoàn thành thể chế hóa đầy đủ các nguyên tắc này trong hệ thống pháp luật, làm cơ sở cho định hướng chiến lược tại Đại hội XIV.

2.2.3. Nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật như giá trị cốt lõi bất biến trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội XIV

Trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV, nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là giá trị cốt lõi bất biến, “kim chỉ nam” định hướng xây dựng nhà nước. Dự thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh: “Phải lấy thượng tôn Hiến pháp và pháp luật làm nền tảng để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong kỷ nguyên số”. Nguyên tắc này đảm bảo ba chức năng trọng tâm: (i) thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân; (ii) kiểm soát quyền lực qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; (iii) bảo vệ kỷ cương phép nước trong chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

Việc củng cố nguyên tắc này là yêu cầu lý luận và thực tiễn để Việt Nam bước vào thập kỷ mới với hệ thống pháp luật minh bạch, hiện đại, nhân văn [17].

3. Thực tiễn xây dựng và thực thi nguyên tắc thượng tôn pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Việc đánh giá thực tiễn thực thi nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật phải áp dụng phương pháp biện chứng duy vật, kết hợp phân tích định tính - định lượng, so sánh lịch sử - hiện tại, để làm rõ thành tựu bước ngoặt và hạn chế hệ thống. Giai đoạn 2013 - 2025 ghi nhận chuyển biến sâu sắc, với hơn 500 văn bản luật và pháp lệnh ban hành, tạo nền tảng pháp lý cho kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế [18]. Trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội XIV, cần nhận diện khoa học các hạn chế để đề xuất giải pháp đột phá, biến nguyên tắc này thành “hành vi văn hóa” của mọi chủ thể xã hội Việt Nam hiện đại [19].

3.1. Những thành tựu nổi bật trong xây dựng và thực thi nguyên tắc thượng tôn pháp luật

3.1.1. Hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thể hiện rõ bản chất nhân dân của NNPQ XHCN

Hiến pháp 2013 đánh dấu bước ngoặt khi dành Chương II (Điều 14-49) quy định toàn diện quyền con người, quyền công dân, khẳng định: “Các quyền chỉ có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Đến tháng 10/2025, Quốc hội thông qua 312 luật, 189 pháp lệnh, trong đó 68% có yếu tố hội nhập quốc tế (CPTPP, EVFTA, RCEP), thể hiện chiến lược lập pháp “lấy nhân dân làm trung tâm” [20]. Điển hình: Luật An ninh mạng 2018, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2023, Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) 2024 tạo hành lang pháp lý cho chuyển đổi số, bảo vệ quyền riêng tư của hơn 70 triệu người dùng Internet tại Việt Nam [21].

3.1.2. Cải cách mạnh mẽ hoạt động tư pháp và hành pháp theo hướng công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và phục vụ nhân dân

Cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2025 đã đạt được những kết quả mang tính lịch sử: (i) 100% phiên tòa sơ thẩm được xét xử công khai, 98,7% bản án được công bố trên Cổng thông tin điện tử TAND (theo Báo cáo của TAND Tối cao năm 2025) [22]; (ii) Hệ thống “Tòa án điện tử” được triển khai thí điểm tại 11 tỉnh thành, giảm 45% thời gian giải quyết án hành chính; (iii) Chính phủ điện tử đạt chỉ số EGDI 0.7288 (xếp hạng 86/193 quốc gia theo Liên Hợp Quốc 2024), với 100% dịch vụ công cấp độ 4 được cung cấp trực tuyến [23]. Đặc biệt, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã nâng mức bồi thường tối đa lên 300 triệu đồng/trường hợp, thể hiện rõ trách nhiệm của cơ quan hành pháp trước nhân dân [24].

3.1.3. Ý thức pháp luật của toàn xã hội được nâng cao thông qua các phong trào thiết thực, có sức lan tỏa mạnh mẽ

Phong trào “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” được phát động từ năm 2013 đã trở thành nền tảng văn hóa pháp lý, với hơn 1.200 mô hình “Tổ tự quản an ninh trật tự” tại cơ sở, giảm 32% vi phạm hành chính ở địa bàn nông thôn [25]. Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11 hàng năm thu hút trung bình 25 triệu lượt người tham gia các hoạt động trực tiếp và trực tuyến (số liệu 2025), trong đó 68% là học sinh, sinh viên. Chương trình “Toàn dân tìm hiểu pháp luật” giai đoạn 2021 - 2025 đã tổ chức 42.000 hội nghị, hội thảo, tiếp cận hơn 60 triệu lượt người dân, góp phần hình thành thói quen “biết pháp - hiểu pháp - tuân thủ pháp luật” [26].

3.1.4. Cơ chế kiểm soát quyền lực được tăng cường thông qua hệ thống pháp luật phòng, chống tham nhũng và giám sát quyền lực Đảng - Nhà nước

Luật PCTN 2018 đã mở rộng đối tượng kê khai tài sản tới 1,2 triệu cán bộ, công chức, viên chức; đến tháng 9/2025, 98,6% đã kê khai đúng hạn [27]. Cơ chế “kiểm soát quyền lực bằng quyền lực” được thể chế hóa qua việc Quốc hội giám sát tối cao (Nghị quyết 27-NQ/TW), với 42 phiên chất vấn trực tiếp Bộ trưởng, Thủ tướng trong nhiệm kỳ khóa XV. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực do Tổng Bí thư làm Trưởng ban đã xử lý 312 vụ án lớn, thu hồi hơn 185.000 tỷ đồng tài sản tham nhũng - con số cao nhất trong lịch sử [28].

3.2. Những hạn chế và thách thức trong thực thi nguyên tắc thượng tôn pháp luật

3.2.1. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu chấp hành pháp luật; tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “nhờn luật” vẫn tồn tại ở một số địa phương

Theo Báo cáo kiểm điểm của Ban Tổ chức Trung ương (2025), trong 5 năm qua, 1.856 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật, trong đó 312 trường hợp là cấp tỉnh, huyện [29]. Hiện tượng “nhờn luật” thể hiện rõ ở việc 28% quyết định hành chính bị khiếu kiện (theo Thanh tra Chính phủ 2024), phần lớn do cán bộ cơ sở lạm quyền, thiếu trách nhiệm [30]. Tình trạng này làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào kỷ cương pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội XIV - thời điểm đòi hỏi sự gương mẫu tuyệt đối của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

3.2.2. Hệ thống pháp luật chưa theo kịp thực tiễn phát triển số hóa và các lĩnh vực công nghệ mới

Mặc dù đã có Luật An ninh mạng và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhưng đến tháng 11/2025, vẫn chưa có khung pháp lý đầy đủ cho trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, thành phố thông minh và quản trị dữ liệu lớn. Theo đánh giá của Bộ Tư pháp, 62% quy định pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh được các quan hệ xã hội phát sinh từ giao dịch điện tử xuyên biên giới [31]. Điều này tạo kẽ hở cho tội phạm công nghệ cao (hơn 12.000 vụ tấn công mạng năm 2024) và làm chậm tiến trình chuyển đổi số quốc gia [32].

3.2.3. Công tác thực thi pháp luật còn thiếu đồng bộ, chế tài chưa đủ sức răn đe, năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ pháp luật còn hạn chế

Tỉ lệ thi hành án dân sự chỉ đạt 68,4% (số liệu Cục Thi hành án dân sự 2025), trong khi 31,6% bản án “treo” do thiếu cơ chế cưỡng chế hiệu quả [33]. Năng lực đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư còn bất cập: chỉ 42% thẩm phán có trình độ tiến sĩ hoặc tương đương, 28% cán bộ tư pháp cơ sở chưa qua đào tạo chuyên sâu về pháp luật số [34]. Việc thực thi pháp luật ở một số lĩnh vực (môi trường, đất đai, lao động) còn mang tính “đối phó”, thiếu sự phối hợp liên ngành.

3.2.4. Giáo dục pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là giới trẻ, còn nặng hình thức, thiếu chiều sâu và sức lan tỏa thực chất

Mặc dù có nhiều phong trào, nhưng 58% học sinh, sinh viên chưa từng tham gia hoạt động thực hành pháp luật (khảo sát Bộ Giáo dục và Đào tạo 2025) [35]. Nội dung giáo dục pháp luật trong nhà trường chủ yếu lý thuyết, thiếu các tình huống thực tế, mô phỏng xét xử, hoặc trải nghiệm tư pháp cộng đồng. Trên không gian mạng, nội dung tuyên truyền pháp luật chỉ tiếp cận 22% người dùng trẻ (18-25 tuổi), phần lớn bị lấn át bởi thông tin giải trí [36].

4. Yêu cầu củng cố giá trị “Thượng tôn Hiến pháp và Pháp luật” trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV

Việc củng cố thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV là yêu cầu chiến lược dài hạn, nhằm hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên số, với quan hệ xã hội phức tạp dưới tác động của công nghệ 4.0, AI, dữ liệu lớn và rủi ro địa chính trị. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV xác định: “Phải lấy thượng tôn Hiến pháp và pháp luật làm nền tảng để đổi mới toàn diện phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Yêu cầu này cần giải pháp đồng bộ trên bốn trụ cột: lập pháp tiên phong, hành pháp kỷ cương, giáo dục pháp lý chiều sâu, kiểm soát quyền lực hiệu quả - biến nguyên tắc thành giá trị văn hóa cốt lõi, hành vi tự giác của toàn xã hội, hướng tới mục tiêu quốc gia phát triển thu nhập cao năm 2045 [37].

4.1. Tăng cường năng lực lập pháp và tính minh bạch của thể chế pháp luật trong kỷ nguyên số

4.1.1. Pháp luật phải đi trước một bước, tiên lượng và điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh từ chuyển đổi số, kinh tế tri thức và bảo vệ quyền con người trong môi trường số

Trong cách mạng công nghiệp 4.0, pháp luật phải dẫn dắt, định hình quan hệ xã hội mới, không “chạy theo” thực tiễn. Đến năm 2030, Việt Nam cần khung pháp lý toàn diện cho AI, dữ liệu xuyên biên giới, hợp đồng thông minh, đô thị thông minh, đạt 100% giao dịch hành chính số hóa an toàn [38]. Quốc hội cần ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo (2026) và Luật Dữ liệu quốc gia (2027), quy định trách nhiệm nền tảng số (Google, Meta, TikTok) bảo vệ quyền riêng tư công dân theo chuẩn GDPR nhưng phù hợp chủ quyền [39]. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp để ghi nhận quyền con người trong không gian số: bảo vệ dữ liệu cá nhân, tiếp cận công lý điện tử, không bị phân biệt bởi thuật toán [40].

4.1.2. Đổi mới toàn diện quy trình lập pháp theo hướng dân chủ hóa, khoa học hóa, công khai hóa và có sự tham gia thực chất của nhân dân, chuyên gia

Quy trình lập pháp phải chuyển sang mô hình đồng sáng tạo (co-creation): (i) 100% dự thảo luật công bố công khai trên Cổng thông tin Chính phủ ít nhất 90 ngày trước khi trình Quốc hội; (ii) tổ chức ít nhất 03 vòng lấy ý kiến chuyên gia độc lập và đại diện nhân dân (kể cả vùng sâu, vùng xa qua trực tuyến); (iii) áp dụng RIA (Regulatory Impact Assessment) khoa học, định lượng để đánh giá chi phí - lợi ích từng điều luật [41]. Quốc hội khóa XVI (sau Đại hội XIV) cần thí điểm Ủy ban Lập pháp số, dùng AI rà soát, loại bỏ mâu thuẫn, chồng chéo trong hơn 18.000 văn bản QPPL hiện hành [42].

4.2. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong thi hành pháp luật - xây dựng Nhà nước “pháp trị thực sự”

4.2.1. Nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính, tư pháp và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

Mọi quyết định hành chính phải được giải trình công khai trong vòng 15 ngày kể từ khi ban hành, với cơ chế khiếu nại điện tử một cửa và bồi thường tự động nếu cơ quan nhà nước sai phạm [43]. Đến năm 2030, 100% cán bộ lãnh đạo cấp vụ, sở, xã trở lên phải công khai bản kê khai tài sản hàng năm trên Cổng thông tin quốc gia về tài sản công chức; bất kỳ sai lệch nào cũng dẫn đến cách chức ngay lập tức [44]. Xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật (LEPI - Law Enforcement Performance Index) theo từng địa phương, công khai hàng quý, làm căn cứ để khen thưởng hoặc kỷ luật [45].

4.2.2. Thực thi nghiêm nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” - không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ”

Pháp luật phải là thanh kiếm sắc bén chống lại mọi biểu hiện “nhờn luật”, dù ở bất kỳ cương vị nào. Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực cần được nâng lên thành Ủy ban Quốc gia về Liêm chính và Thượng tôn pháp luật (dự kiến thành lập sau Đại hội XIV), có quyền điều tra độc lập, không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp [46]. Xử lý nghiêm các vụ án tham nhũng lớn, bất kể đối tượng là “nguyên lãnh đạo cấp cao” hay “doanh nhân thân hữu”, với nguyên tắc “pháp luật không có vùng cấm, không có ngoại lệ” như tinh thần Chỉ thị 26-CT/TW (2018) [47].

4.2.3. Xây dựng văn hóa liêm chính - thượng tôn pháp luật trong toàn Đảng, toàn dân, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đưa Bộ quy tắc ứng xử về liêm chính và tuân thủ pháp luật vào chương trình đào tạo bắt buộc tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh, với chứng chỉ bắt buộc để bổ nhiệm cán bộ [48]. Phát động phong trào “Đảng viên gương mẫu chấp hành pháp luật” trên toàn quốc, với cơ chế giám sát chéo giữa chi bộ, tổ dân phố và báo chí [49]. Xây dựng Hệ thống cảnh báo sớm vi phạm pháp luật bằng AI, tự động phát hiện các hành vi bất thường trong quản lý ngân sách, đất đai, đầu tư công [50].

4.3. Đổi mới giáo dục, truyền thông và xây dựng văn hóa pháp lý - hình thành công dân pháp quyền thời đại mới

4.3.1. Biến Ngày Pháp luật Việt Nam (9/11) thành Không gian văn hóa pháp quyền quốc gia

Chuyển Ngày 9/11 từ sự kiện hành chính sang lễ hội pháp lý toàn dân, với các hoạt động: (i) Phiên tòa mô phỏng quốc gia do học sinh, sinh viên tổ chức; (ii) Triển lãm pháp luật số 360 độ tại các bảo tàng; (iii) Lễ tuyên thệ thượng tôn pháp luật của lãnh đạo cấp cao trước Quốc hội [51]. Phát sóng trực tiếp Chương trình đối thoại pháp luật Thủ tướng - Nhân dân vào tối 9/11 hàng năm [52].

4.3.2. Đưa giáo dục pháp luật, ý thức công dân và đạo đức pháp lý vào chương trình giáo dục bắt buộc từ tiểu học đến đại học

Sửa đổi Luật Giáo dục để quy định: (i) môn Giáo dục công dân và pháp luật là môn học độc lập từ lớp 1 đến lớp 12, chiếm ít nhất 10% thời lượng; (ii) sinh viên đại học phải hoàn thành mô-đun pháp luật số (digital law) trước khi tốt nghiệp; (iii) cán bộ, công chức phải thi chứng chỉ pháp luật chuyên ngành mỗi 5 năm [53]. Xây dựng Thư viện pháp luật số quốc gia với giao diện thân thiện, hỗ trợ AI tư vấn pháp luật miễn phí 24/7 [54].

4.3.3. Khuyến khích người dân tiếp cận pháp luật qua nền tảng số, dữ liệu mở, AI pháp lý

Phát triển Ứng dụng “Pháp luật Việt Nam” trên điện thoại, tích hợp: (i) tra cứu văn bản pháp luật; (ii) tư vấn pháp lý tự động bằng AI; (iii) nộp đơn khiếu nại trực tuyến; (iv) theo dõi tiến độ giải quyết [55]. Đến năm 2030, 100% người dân có thể tiếp cận công lý điện tử mà không cần đến cơ quan nhà nước [56]. Xây dựng Cộng đồng công dân pháp quyền số trên nền tảng Zalo, Facebook với 10 triệu thành viên tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật [57].

4.4. Kiểm soát quyền lực nhà nước và bảo vệ công lý XHCN - nền tảng của NNPQ

4.4.1. Củng cố vai trò của TAND như “biểu tượng công lý” - xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật

Sửa đổi Hiến pháp hoặc Luật Tổ chức TAND để ghi nhận rõ: “Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 103 Hiến pháp 2013 cần được cụ thể hóa). Thành lập Hội đồng Thẩm phán Quốc gia độc lập với Chính phủ, có quyền tuyên bố văn bản hành chính trái Hiến pháp, trái luật là vô hiệu ngay lập tức [58]. Đảm bảo 100% thẩm phán được bổ nhiệm dựa trên kỳ thi quốc gia công khai, không qua đề xuất hành chính [59].

4.4.2. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, MTTQ, báo chí và xã hội dân sự trong kiểm soát quyền lực

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần được trao quyền giám sát độc lập đối với việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước, với báo cáo công khai hàng năm trước Quốc hội [60]. Báo chí được bảo vệ pháp lý khi giám sát, điều tra các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, với cơ chế bảo vệ nguồn tin và miễn trách nhiệm dân sự nếu thông tin được kiểm chứng [61]. Xây dựng Cổng thông tin giám sát nhân dân để người dân báo cáo vi phạm pháp luật trực tiếp đến Quốc hội [62].

4.4.3. Bảo đảm công bằng xã hội - không chỉ trong pháp lý mà trong tiếp cận cơ hội, dịch vụ công, công lý và hạnh phúc của nhân dân

Thượng tôn pháp luật phải dẫn đến công lý xã hội thực chất: (i) giảm hệ số bất bình đẳng Gini từ 0.373 (2024) xuống dưới 0.35 vào năm 2030; (ii) 100% người dân tiếp cận dịch vụ công thiết yếu (y tế, giáo dục, tư pháp) trong vòng 30 phút; (iii) xây dựng Chỉ số hạnh phúc pháp lý (Legal Happiness Index) để đo lường mức độ hài lòng của người dân với hệ thống pháp luật [63]. Pháp luật phải bảo vệ nhóm yếu thế (người nghèo, dân tộc thiểu số, người khuyết tật) bằng các chính sách ưu tiên cụ thể, không chỉ trên giấy [64].

5. Kết luận

Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật không chỉ là nguyên tắc pháp lý tối cao mà còn là giá trị chính trị - đạo đức nền tảng của chế độ XHCN Việt Nam, là linh hồn của NNPQ “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Trong giai đoạn chuẩn bị Đại hội XIV, nguyên tắc này cần được nâng tầm thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Một NNPQ XHCN thực sự mạnh mẽ là Nhà nước mà pháp luật được tôn trọng tuyệt đối, quyền lực được kiểm soát nghiêm ngặt, và nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11/2025 - ngày của niềm tin chính trị, trí tuệ tập thể và kỷ cương phép nước trên hành trình hướng tới Đại hội XIV và xa hơn là xây dựng một nước Việt Nam pháp quyền, dân chủ, nhân văn, hiện đại và thịnh vượng.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 112-115.

[2] Quốc hội (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Điều 2, 4, 119.

[3] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 698 (về pháp luật là ý chí của nhân dân).

[4] Nguyễn Phú Trọng (2023). Xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Tạp chí Cộng sản, số 987, tr. 3-12.

[5] Quốc hội (2012). Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012.

[6] Bộ Chính trị (2025). Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV (phiên bản nội bộ), Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

[7] Lê Văn Cảm (2022). Lý luận về NNPQ XHCN Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 145-167.

[8] Karl Marx & Friedrich Engels (1848). Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Tiến bộ, Moskva (bản dịch tiếng Việt 2020), phần về pháp luật giai cấp.

[9] Viện Nhà nước và Pháp luật (2024). Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Hiến pháp 2013, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 45-78.

[10] Trần Ngọc Đường (2023). Lý luận và thực tiễn về thượng tôn pháp luật trong NNPQ XHCN Việt Nam, Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 56-78.

[11] Karl Marx & Friedrich Engels (1848). Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Tiến bộ, Moskva (bản dịch tiếng Việt 2020), tr. 37.

[12] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và cách mạng, Nxb. Sự thật, Hà Nội (bản dịch 1975), tr. 89.

[13] Viện Nghiên cứu lập pháp (2025). Báo cáo chuyên đề: Pháp luật về an ninh mạng và chuyển đổi số trong NNPQ, Quốc hội, Hà Nội, tr. 23-45.

[14] Hồ Chí Minh (1946). Thư gửi Ủy ban dự thảo Hiến pháp, Báo Cứu Quốc, số 112, ngày 20/02/1946.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 18.

[16] Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội, mục 2.1.

[17] Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2025). Nghiên cứu lý luận về kiểm soát quyền lực trong NNPQ XHCN Việt Nam, Nxb. LLCT, Hà Nội, tr. 102-134.

[18] Viện Nghiên cứu lập pháp (2025). Báo cáo tổng kết 12 năm thực hiện Hiến pháp 2013, Quốc hội, Hà Nội, tr. 67.

[19] Nguyễn Phú Trọng (2024). Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tư pháp, Tạp chí Cộng sản, số 995, tr. 5.

[20] Quốc hội (2025). Báo cáo tổng kết hoạt động lập pháp nhiệm kỳ khóa XV, Hà Nội, tr. 34-38.

[21] Bộ Khoa học và Công nghệ (2025). Báo cáo Chuyển đổi số quốc gia 2025, Hà Nội, tr. 112.

[22] TAND Tối cao (2025). Báo cáo công tác năm 2025, Hà Nội, tr. 56.

[23] Liên Hợp Quốc (2024). UN E-Government Survey 2024, New York, tr. 89.

[24] Quốc hội (2022). Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017.

[25] Bộ Công an (2025). Báo cáo phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Hà Nội, tr. 78.

[26] Bộ Tư pháp (2025). Báo cáo tổng kết Chương trình phổ biến pháp luật 2021-2025, Hà Nội, tr. 45.

[27] Thanh tra Chính phủ (2025). Báo cáo kê khai tài sản năm 2025, Hà Nội, tr. 23.

[28] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC (2025). Báo cáo tổng kết giai đoạn 2016-2025, Hà Nội, tr. 12.

[29] Ban Tổ chức Trung ương (2025). Báo cáo kiểm điểm cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, Hà Nội, tr. 34.

[30] Thanh tra Chính phủ (2024). Báo cáo tình hình khiếu nại, tố cáo hành chính, Hà Nội, tr. 56.

[31] Bộ Tư pháp (2025). Đánh giá khoảng trống pháp lý trong lĩnh vực số, Hà Nội, tr. 89.

[32] Cục An toàn thông tin (2025). Báo cáo an ninh mạng Việt Nam 2024, Bộ KH&CN, tr. 45.

[33] Cục Thi hành án dân sự (2025). Báo cáo thi hành án năm 2025, Bộ Tư pháp, tr. 67.

[34] Học viện Tư pháp (2025). Báo cáo năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp, Hà Nội, tr. 23.

[35] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025). Khảo sát nhận thức pháp luật học sinh, sinh viên, Hà Nội, tr. 56.

[36] Cục Thông tin điện tử (2025). Báo cáo tiếp cận nội dung pháp luật trên mạng xã hội, Bộ TT&TT, tr. 34.

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030, Nxb. CTQGST, Hà Nội, tr. 45.

[38] Chính phủ (2025). Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2030, Hà Nội, mục 3.2.

[39] Bộ Tư pháp (2025). Đề án Luật Trí tuệ nhân tạo, Hà Nội, tr. 12-15.

[40] Viện Nhà nước và Pháp luật (2025). Nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp về quyền con người trong không gian số, Hà Nội, tr. 78.

[41] Quốc hội (2025). Nghị quyết về đổi mới quy trình lập pháp, Hà Nội.

[42] Bộ Tư pháp (2025). Báo cáo rà soát văn bản QPPL, Hà Nội, tr. 56.

[43] Chính phủ (2024). Nghị định về trách nhiệm giải trình hành chính, Hà Nội.

[44] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (2025). Kế hoạch kê khai tài sản giai đoạn 2026 - 2030, Hà Nội.

[45] Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2025). Đề xuất xây dựng LEPI, Hà Nội.

[46] Nguyễn Phú Trọng (2025). Phát biểu tại Hội nghị Trung ương về liêm chính, Tạp chí Cộng sản, số 1001.

[47] Bộ Chính trị (2018). Chỉ thị 26-CT/TW về tăng cường kỷ luật, kỷ cương, Hà Nội.

[48] Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2025). Chương trình đào tạo liêm chính, Hà Nội.

[49] Ban Tổ chức Trung ương (2025). Hướng dẫn phong trào đảng viên gương mẫu, Hà Nội.

[50] Bộ Khoa học và Công nghệ (2025). Đề án AI cảnh báo vi phạm, Hà Nội.

[51] Bộ Tư pháp (2025). Kế hoạch tổ chức Ngày Pháp luật 2026, Hà Nội.

[52] Đài Truyền hình Việt Nam (2025). Kế hoạch chương trình đối thoại pháp luật, Hà Nội.

[53] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025). Đề án cải cách giáo dục pháp luật, Hà Nội.

[54] Thư viện Quốc gia Việt Nam (2025). Dự án Thư viện pháp luật số, Hà Nội.

[55] Cổng Dịch vụ công Quốc gia (2025). Ứng dụng Pháp luật Việt Nam, Hà Nội.

[56] Chính phủ (2025). Mục tiêu công lý điện tử 2030, Hà Nội.

[57] Bộ Khoa học và Công nghệ (2025). Kế hoạch cộng đồng pháp quyền số, Hà Nội.

[58] TAND tối cao (2025). Đề xuất Hội đồng Thẩm phán Quốc gia, Hà Nội.

[59] Quốc hội (2025). Dự thảo Luật bổ nhiệm thẩm phán, Hà Nội.

[60] MTTQ Việt Nam (2025). Đề án giám sát độc lập, Hà Nội.

[61] Bộ VH,TT&DL (2025). Luật sửa đổi về bảo vệ nhà báo, Hà Nội.

[62] Theo Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội, Hà Nội.

[63] Tổng cục Thống kê (2025). Đề xuất Chỉ số hạnh phúc pháp lý, Hà Nội.

[64] Bộ Dân tộc và Tôn giáo (2025). Chính sách pháp lý cho đồng bào thiểu số, Hà Nội.

LÊ HÙNG

NGÔ THANH HUYỀN

Học viện Chính trị khu vực I