/ Pháp luật - Đời sống
/ Vụ đất chưa bồi thường, UBND tỉnh Bình Thuận cấp sổ đỏ cho doanh nghiệp: Viện KSND tỉnh kháng nghị bản án

Vụ đất chưa bồi thường, UBND tỉnh Bình Thuận cấp sổ đỏ cho doanh nghiệp: Viện KSND tỉnh kháng nghị bản án

06/10/2024 18:13 |

(LSVN) - Ngày 02/10/2024, VKSND tỉnh Bình Thuận ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/QĐKNPT-VKS-HC. Quyết định này, kháng nghị phúc thẩm toàn bộ Bản án 172/2024/HC-ST ngày 18/9/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận (gọi tắt là Tòa). Đồng thời, đề nghị TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh áp dụng điểm a khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa bản án hành chính sơ thẩm số 172/HC-ST ngày 18/9/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Thảo.

Nhiều dấu hiệu cần xem xét hành vi hình sự

Điểm 2, mục Xét thấy của kháng nghị nêu: “Công ty TNHH Đại Thanh Quang (Công ty ĐTQ) cung cấp bản photo “Giấy sang nhượng đất” viết tay ghi ngày 23/10/2009 về việc bà Nguyễn Thị Huệ chuyển nhượng cho ông Phan Thanh diện tích 17.500m2 đất với giá 3.500.000.000 đồng, có nhân chứng Thái Văn Hải xác nhận. Đồng thời, cung cấp biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty ĐTQ ngày 19/5/2017, có nội dung: Ngày 23/10/2009 ông Phan Thanh (thành viên HĐTV - đại diện 10% vốn góp của Công ty ĐTQ) đền bù bằng giấy tay đối với diện tích 17.500m2 đất trồng hoa màu trong Hố Lở, thuộc thôn Tiến Bình của bà Nguyễn Thị Huệ với số tiền 3.500.000.000 đồng). Tuy nhiên, ngày 15/06/2016 ông Hồ Duy Đấu (sinh năm 1949, nguyên Phó giám đốc Công ty ĐTQ) theo Quyết định số 04/QĐCT ngày 20/05/2015, xác nhận trường hợp bà Nguyễn Thị Huệ chưa nhận tiền đền bù đất...”.

Theo hồ sơ vụ án, khi xảy ra tranh chấp, ông Thảo làm đơn tố cáo đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Thuận (CQCSĐTCABT). Đơn tố cáo của ông Thảo đã được CQCSĐTCABT thụ lý, điều tra và có kết luận...

Tài liệu photo “Giấy sang nhượng đất” mà Công ty ĐTQ cung cấp cho Tòa, tài liệu này đã được PKTHSCABT giám định là không có cơ quan thẩm quyền xác nhận... 

Ông Phan Thanh là ai? Bản photo “ Giấy sang nhượng đất” giữa ông Phan Thanh và bà Huệ có thật hay giả mạo chữ ký? Ai “sáng tác” tài liệu photo này? Ai là người cung cấp tài liệu photo này cho tòa? Phải chăng ông Thanh và bà Huệ đã chết nên cơ quan tố tụng “dừng bước” trước sự thật của tài liệu photo này?   

Bút lục số 175 là lời khai của ông Hồ Duy Đấu ngày 31/10/2022 tại CQCSĐTCABT: “Vào năm 2005, tôi đang làm Giám đốc dự án kiêm Trưởng phòng đô thị TP. Phan Thiết. Ông Phan Thanh và vợ là Nguyễn Thị Trúc Vân đến gặp tôi, nhờ tôi hỗ trợ để làm dự án từ UBND tỉnh Bình Thuận. Năm 2010 tôi về hưu, năm 2013, ông Thanh mời tôi tham gia vào Công ty ĐTQ, đến 2015 tôi được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Công ty ĐTQ, kiêm Giám đốc dự án 86ha tại xã Tiến Thành. Năm 2017, Công ty ĐTQ chuyển giao 100% dự án cho Cty địa ốc Thái Dương, tôi nghỉ việc. Trong quá trình làm việc tại Công ty ĐTQ, tôi được biết thửa đất này ông Nguyễn Văn Thảo đang tranh chấp với Công ty ĐTQ là của ông Nguyễn Văn Thảo mua lại của bà Nguyễn Thị Huệ, thửa đất này bà Huệ mua của ông Nguyễn Văn Cam...”.

Ông Đấu không biết gì về việc ông Thanh mua đất của bà Huệ, lại không biết gì về bản photo “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009 giữa ông Thanh và bà Huệ. Về tài liệu “Giấy sang nhượng đất” bản photo giữa ông Thanh bà Huệ, Phòng kỹ thuật khoa học hình sự Công an tỉnh Bình Thuận (PKTHSCABT) kết luận như sau, trích kháng nghị số 09 của VKSND tỉnh Bình Thuận: “Chữ ký (photo) mang tên Phan Thanh dưới mục “Bên A Bên Bán” trên tài liệu A (tài liệu photo) (tức giấy sang nhượng đất giữa bà Huệ  với ông Phan Thanh ghi ngày 23/10/2024 có dạng tương đối khác với chữ ký đứng tên Phan Thanh trên tài liệu M1, M2 (tài liệu gốc)”.

Theo kết quả giám định PKTHSCABT thì đã có dấu hiệu “tương đối khác” chữ ký của ông Phan Thanh trong bản photo sang nhượng đất với bà Huệ, so với chữ ký gốc của ông Phan Thanh tại tài liệu M1, M2 (tài liệu gốc để so sánh với chữ ký yêu cầu giám định - PV). Vậy, có hay không “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009 do ai đó viết ra và ký thay ông Thanh, rồi cung cấp cho tòa án? Vì không có bản gốc nên PKTHSCABT không xác định được: “Chữ ký trên tài liệu “Giấy sang nhượng”- tài liệu A là chữ ký photo nên không đủ cơ sở giám định so sánh với chữ ký trên tài liệu M1, M2 để kết luận có phải hoặc không phải do một người ký ra”. Vấn đề đặt ra, bản gốc của “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009 hiện nay đang nằm ở đâu? Tòa không xác minh, tìm ra, nhưng trong phiên tòa, chủ tọa phiên tòa không xem xét đến tình tiết này, khi đại diện Công ty ĐTQ khẳng định đã bồi thường cho bà Huệ 3.500.000.000 đồng, trùng khớp với giá tiền ông Thanh mua đất bà Huệ? Phải chăng Tòa chấp nhận một chứng cứ photo mà công nhận việc Công ty ĐTQ đã bồi thường đất cho bà Huệ? 

Một điều “thú vị” hơn nữa là, ai đó “sáng tác” tài liệu“Giấy sang nhượng đất”đã không biết bà Huệ sinh năm nào? Trước tòa, ông Phạm Văn Vinh, con bà Huệ, tranh luận rằng: “Mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1920, tôi sinh năm 1945. Trong tài liệu “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009, ghi mẹ tôi sinh năm 1940, vậy mẹ tôi đẻ ra tôi lúc mẹ tôi mới 05 tuổi? Được biết, trong hồ sơ vụ án, tất cả Bút lục về ông Vinh đều ghi ông Vinh sinh năm 1945. Nhưng sự thật này, chủ tọa phiên tòa không xem xét đến, mà công nhận “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009, chấp nhận yêu cầu của Công ty ĐTQ đã bồi thường cho bà Huệ 3.500.000.000 đồng. Ông Vinh tranh luận tiếp với đại diện Công ty ĐTQ: “Đại diện Công ty ĐTQ đến gặp mẹ tôi 02 lần để thương lượng bồi thường, nhưng chưa bồi thường đồng nào, và đại diện Công ty ĐTQ “biến mất” từ đó cho đến nay?”...  

Kiến nghị 09 của VKSND tỉnh Bình Thuận xét thấy: “Ngày 24/09/2021 ông Thái Văn Hải (người làm chứng trong tư liệu photo “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009 giữa ông Thanh, bà Huệ-PV) có trình bày: “Vào năm 2009, ông Nguyễn Tấn Triết nói với “Hải” là ông “Triết” đại diện Công ty ĐTQ có đại diện cho ông Phan Thanh mua đất của bà Nguyễn Thị Huệ và yêu cầu ông Hải ký vào giấy sang nhượng chỗ người chứng kiến. Thực tế ông Hải không biết việc mua bán, giao nhận tiền giữa hai bên như thế nào. Nay ông Hải thấy việc ký như vậy là sai”. Lời khai của ông Thái Văn Hải trình bày trong hồ sơ vụ án, khớp với Bút lục số 180 là biên bản lời khai của ông Hải ngày 06/7/2022 tại CQCSĐTCABT: “Tôi chỉ biết thửa đất này trước kia là của ông Nguyễn Văn Cam, sau này ông Cam bán lại cho bà Nguyễn Thị Huệ. Sau này bà Huệ bán cho ông Nguyễn văn Thảo cho đến nay”.

Từ những Bút lục là những biên bản lời khai tại CQCSĐTCABT của những người liên quan đến vụ án. Kết quả giám định. Kết quả điều tra tố giác tội phạm của CQCSĐTCABT. Kháng nghị 09 của VKSND tỉnh Bình Thuận kháng nghị: “Như vậy, căn cứ vào kết luận giám định của PKTHSCABT đã xác định “Giấy sang nhượng đất” ghi ngày 23/10/2009, giữa bà Nguyễn Thị Huệ và ông Phan Thanh là bản photo, không có chứng nhận của cơ quan  có thẩm quyền; hiện nay ông Phan Thanh và bà Nguyễn Thị Huệ đã chết nên cơ quan điều tra không làm việc được”. Một tài liệu photo đã được CQCSĐTCATBT kết luận “không có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền”, nhưng vẫn được chủ tọa phiên tòa ngày 18/9/2024 công nhận là tư liệu pháp luật để nhận định và tuyên án? 

Tòa nhận định tại Bản án 172/2024/HC-ST như sau: “Như vậy, có căn cứ xác định trong khoảng thời gian này, bà Huệ đã biết việc ông Vinh chuyển nhượng đất cho Lâm trường Phan Thiết và thực tế gia đình bà Huệ không trực tiếp quản lý sử dụng đất và tài sản trên đất từ năm 1990 cho đến nay”. Tòa nhận định, gia đình bà Huệ không trực tiếp quản lý, sử dụng đất và tài sản trên đất từ năm 1990 đến nay. Thế nhưng, tòa lại công nhận bản photo “Giấy sang nhượng đất” ngày 23/10/2009 giữa bà Huệ và ông Phan Thanh? Bà Huệ không sử dụng, quản lý đất từ năm 1990 cho đến nay, ngày 18/09/2024, nhưng tòa lại công nhận bà Huệ bán đất cho ông Thanh vào năm 2009? Hơn nữa, tòa lại công nhận biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty ĐTQ ngày 19/05/2017, rằng Công ty ĐTQ đã bồi thường cho bà Huệ 3,5 tỉ đồng? Bà Huệ không quản lý, sử dụng đất thì tại sao tòa lại công nhận Công ty ĐTQ bồi thường cho bà Huệ 3,5 tỉ đồng vào năm 2017? Tòa lại công nhận bà Huệ bán đất cho ông Thanh năm 2009? Những mâu thuẫn khó tin, nhưng có thật này, đã diễn ra tại phiên tòa ngày 18/09/2024 của Tòa án tỉnh Bình Thuận?

Điểm 6, kháng nghị 09 xét thấy: “UBND xã Tiến Thành lập biên bản vi phạn hành chính ngày 06/02/2023 đối với ông Nguyễn Văn Thảo về hành vi lấn chiếm đất là không có căn cứ; bởi lẽ: “Người ghi biên bản là ông Nguyễn Đức Minh Đạt, cán bộ địa chính xã Tiến Thành. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/8/2022 ông Nguyễn Đức Minh Đạt đã chuyển công tác nên không còn là cán bộ địa chính xã, nhưng tại biên bản vi phạm hành chính lập ngày 06/02/2023 vẫn có ông Đạt ký tên trong biên bản. Do đó, tại Kết luận số 7998/KL-UBND ngày 29/11/2023 và Thông báo số 2287/TB-UBND ngày 12/12/2023 của UBND TP. Phan Thiết về kết quả giải quyết tố cáo đối với ông Nguyễn Ngọc Trường, nguyên Chủ tịch UBND xã Tiến Thành đã xác định lập Biên bản vi phạm hành chính lập ngày 06/02/2023 là lập khống”. Thế nhưng, văn bản lập khống này vẫn được Tòa công nhận là văn bản pháp luật để nhận định: “Ông Nguyễn Văn Thảo lấn chiếm đất Công ty ĐTQ"?

Từ những tình tiết trong hồ sơ vụ án, chứng cứ, nhân chứng tại phiên tòa, kháng nghị 09 VKSND tỉnh Bình Thuận công nhận: “...11.941,2m2 đất thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Thảo, đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại Điều 40 Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 25/5/2007; Điều 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003, khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013”.

“Việc UBND tỉnh Bình Thuận giao đất đang có người dân quản lý, sử dụng cho Công ty ĐTQ thuê và việc Sở TN-MT tỉnh Bình Thuận cấp giấy CNQSD đất số DH 829518 ngày 09/12/2022 cho Công ty ĐTQ có một phần không đúng  quy định của pháp luật, do xác định không đúng người đang sử dụng đất; đã vi phạm Điều 32, khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai 2003, khoản 4 Điều 130  Nghị định 181/2004/NĐ-CP của về thi hành Luật Đất đai năm 2003”.

Đối chiếu với Điều 53 của Luật Đất đai năm 2013 và khoản 4 Điều 117 Luật Đất đai năm 2024 thì: “Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người quản lý, sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi và phải thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp được chuyển nhượng dự án bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản”.

Từ những nhận thấy và xét thấy trên, VKSND tỉnh Bình Thuận kháng nghị toàn bộ bản án 172 của TAND tỉnh Bình Thuận.

Tạp chí Luật sư Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin về vụ án.

HUY HOÀNG

Binh Thuận: UBND tỉnh giao đất cho doanh nghiệp khi chưa bồi thường thu hồi đất

Nguyễn Hoàng Lâm