Tín dụng cho người yếu thế tiếp cận từ góc độ tài chính toàn diện

28/01/2022 22:58 | 2 năm trước

(LSVN) - Tín dụng cho người yếu thế mà bản chất là tín dụng chính sách xã hội từ lâu đã trở thành vấn đề không chỉ ở cấp quốc gia của mỗi nước, mà hầu hết các nước trên thế giới đều đặc biệt quan tâm. Nhận thức rõ vai trò của vấn đề này, Việt Nam đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách và khung khổ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực tín dụng đối với người yếu thế, qua đó nhằm tạo sinh kế cho nhóm người khó khăn trong việc tiếp cận với các khoản vay thông thường, góp phần xóa đói, giảm nghèo, hướng tới một xã hội ổn định, công bằng và thịnh vượng, an sinh xã hội được bảo đảm.

Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Một trong ba trụ cột chủ yếu và cơ bản của Chiến lược này là chính sách tín dụng cho người yếu thế. Bài viết tập trung phân tích về các khía cạnh: Khái niệm người yếu thế, người yếu thế trong quan hệ tín dụng ngân hàng và vai trò, ý nghĩa của chính sách tín dụng đối với họ; kèm theo các đánh giá sơ bộ về thực trạng chính sách, thực tiễn thực thi chính sách cũng như đưa ra các quan điểm, mục tiêu tiếp cận để góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam trong thời gian tới.

Ảnh minh họa.

Vị trí, vai trò của chính sách tín dụng cho người yếu thế từ góc nhìn tài chính toàn diện

Khái niệm tài chính toàn diện có thể được khái quát là việc các dịch vụ tài chính chính thức (tài khoản ngân hàng, tiết kiệm và tín dụng) được cung cấp tới mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với nhóm người dễ bị tổn thương, theo cách thức thuận tiện, chi phí hợp lý và phù hợp với nhu cầu. Như vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho các đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Một trong các trục cơ bản và quan trọng thuộc khái niệm tài chính toàn diện là chính sách tín dụng đối với nhóm người dễ bị tổn thương hay còn gọi là nhóm người yếu thế trong xã hội. Với một chính sách tín dụng cởi mở, thuận tiện, có tính chất ưu đãi sẽ giúp đối tượng này thay đổi cuộc sống theo chiều hướng chất lượng hơn.

Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa to lớn của tín dụng cho người yếu thế đối với xã hội, ngày 22/11/2014 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW (Chỉ thị 40) của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

Để đánh giá hiệu quả thực thi của Chỉ thị, ngày 10/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Nội dung đánh giá chỉ rõ: Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 40, với quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cả hệ thống chính trị và triển khai tích cực của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), công tác tín dụng chính sách xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; đã huy động được hàng trăm nghìn tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của đông đảo người nghèo và các đối tượng chính sách ở 100% xã, phường, thị trấn của cả nước, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững, hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, những người có hoàn cảnh khó khăn và xây dựng nông thôn mới. Đã có hơn 12 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn tại NHCSXH; góp phần giúp hơn 2,1 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho hơn 1,3 triệu lao động; giúp hơn 24.000 lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; gần 346.000 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng hơn 7,3 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, gần 142.000 căn nhà cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách...[1].

Để tiếp nối những thành công đã đạt được, Kết luận quán triệt: Tiếp tục quán triệt sâu rộng nội dung Chỉ thị 40, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các cấp ủy, chính quyền cần xác định công tác tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng[2].

Về mặt pháp lý, tín dụng đối với người yếu thế được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp độ khác nhau. Trọng tâm, khái quát và tập trung nhất là các quy định của Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Người yếu thế trong quan hệ tín dụng ngân hàng

Theo nghĩa chung nhất thì những đối tượng được coi là người yếu thế là những đối tượng mà trong những hoàn cảnh giống nhau khi tham gia vào một quan hệ xã hội, quan hệ lao động, quan hệ pháp luật những đối tượng này luôn gặp bất lợi hơn so với những đối tượng khác trong cùng một hoàn cảnh. Nói cách khác, những đối tượng này phải thực hiện theo một cách hoàn toàn bất lợi với họ trong quan hệ đó. Tùy theo mục tiêu nghiên cứu, xem xét và quan hệ mà họ tham gia người ta có thể xếp nhóm người nhất định, chủ thể nhất định thuộc đối tượng là những người yếu thế. Ví dụ, người khuyết tật, người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người thuộc nhóm giới tính khác (đồng tính, song tính, chuyển giới - LGBT), người cao tuổi,…

Trong quan hệ tín dụng, có thể xem người yếu thế là người ít, thậm chí không có khả năng tiếp cận với các khoản tín dụng (khoản vay) theo cách thông thường như những người bình thường khác khi có nhu cầu”. Họ gặp khó khăn, trở ngại trong việc tiếp cận vốn vay so với các đối tượng bình thường khác do không có tài sản bảo đảm và/hoặc không đủ uy tín với tổ chức tín dụng (TCTD) vì các lý do thuộc về nhân thân.

Dưới giác độ học thuật, khái niệm tín dụng cho người yếu thế là: “Tín dụng cho người yếu thế là việc TCTD cho người yếu thế vay vốn, thời hạn vay phù hợp, điều kiện vay dễ dàng, có chính sách xử lý khi gặp rủi ro khách quan, khoản vay phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc giải quyết một phần nhu cầu thiết yếu, cải thiện đời sống”[3].

Ở một phương diện khác, tín dụng cho người yếu thế về bản chất là tín dụng chính sách xã hội, tín dụng ưu đãi của nhà nước, nếu không có những ràng buộc pháp lý thông qua sự điều chỉnh của pháp luật thì rất đễ xảy ra tình trạng trục lợi của một hoặc một số chủ thể nào đó có vị thế trong xã hội, dẫn tới tình trạng mặc dù thuộc diện yếu thế nhưng vẫn rất khó, thậm chí không tiếp cận được với khoản vay, làm cho mục đích, ý nghĩa của loại hình tín dụng này không đạt được.

Với tất cả những lý do nêu trên, có thể khẳng định rằng, để tín dụng cho người yếu thế vận hành một cách bình thường, quyền và nghĩa vụ của các bên được nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tế, vai trò của tín dụng cho người yếu thế được phát huy một cách tốt nhất, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững, rất cần có một chính sách định hướng đúng đắn, một khung pháp luật hoàn chỉnh, với cấu trúc hợp lý và nội dung khả thi cho hoạt động này.

Vai trò của tín dụng đối với người yếu thế dưới góc nhìn tài chính toàn diện

Tài chính toàn diện là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ (Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030).

Vai trò quan trọng của tín dụng đối với người yếu thế được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

- Là động lực giúp những người yếu thế vượt qua nghèo đói: vốn đối với họ là điều kiện tiên quyết để tổ sản xuất, thâm canh, tổ chức kinh doanh, là động lực đầu tiên giúp họ vượt qua khó khăn để thoát khỏi đói nghèo một cách bền vững.

- Là công cụ chủ chốt nhằm phá vỡ vòng xoáy nghèo đói: Vòng xoáy nghèo đói là sự tiếp diễn dường như không kết thúc của nghèo đói. Là tập hợp những nhân tố, những sự kiện mà nghèo mỗi khi đã xuất hiện thì sẽ tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác trừ khi có sự can thiệp từ bên ngoài.

Tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng để hộ nông dân phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Lý thuyết mô hình kinh tế hộ đã chỉ ra rằng tín dụng là tiền đề quan trọng để hộ mua sắm vật tư, đầu tư sản xuất kinh doanh, nó trực tiếp liên quan đến mức độ sử dụng các chi phí đầu vào, quyết định mức sản lượng - đặc biệt đối với những hộ gặp khó khăn trong thanh khoản. Vì vậy, hạn chế tiếp cận tín dụng là cản trở căn bản, hạn chế hộ gia đình tối ưu hóa sản xuất và tiêu dùng.

- Góp phần quan trọng vào việc hạn chế cho vay nặng lãi (tín dụng đen): Tín dụng cho hộ nghèo đã góp phần cải thiện thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những vùng có nhiều hộ nghèo sinh sống. Nếu không có nguồn vốn tín dụng dành cho những hộ nghèo ở những khu vực này thì họ sẽ phải đi vay nặng lãi hoặc cầm cố ruộng đất để có vốn đầu tư sản xuất và chi phí cho cuộc sống, do vậy áp lực tài chính đối với những hộ nghèo rất nặng nề.

Thực tiễn thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam

Chính sách, pháp luật hiện hành về tín dụng cho người yếu thế

Quan hệ tín dụng này đang được điều chỉnh chủ yếu bởi Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 (Nghị định 78) của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Theo đó, chủ thể cho vay là các TCTD mà trọng tâm là Ngân hàng Chính sách xã hội, còn bên đi vay gồm các đối tượng sau: Hộ nghèo; học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135) và các đối tượng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.  

Các đối tượng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ tính đến thời điểm hiện tại, gồm có: Hộ cận nghèo (theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo); người nhiễm HIV; người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; người bán dâm hoàn lương; hộ có gười nhiễm HIV/AIDS; hộ có người sau cai nghiện ma túy; Hộ có người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Hộ có người bán dâm hoàn lương (Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng chất thay thế, người bán dâm hoàn lương); hộ mới thoát nghèo (Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo).

Tất cả các đối tượng trên đây, có thể khác nhau về hoàn cảnh, điều kiện, nhân thân… nhưng đều có một điểm chung, đó là trong quan hệ với TCTD để tiếp cận các khoản vay họ bị coi là nhóm người yếu thế so với những người khác. Chính vì vậy mà pháp luật quy định cho họ được tiếp cận với các khoản tín dụng ưu đãi hay còn gọi là tín dụng chính sách xã hội do NHCSXH đóng vai trò là bên cho vay.

Việc có riêng các quy định pháp luật về tín dụng đối với nhóm chủ thể vay vốn được cho là yếu thế này là rất cần thiết, vì họ là những người nếu để cùng “sân chơi” với những người có điều kiện khác, họ sẽ rất khó, thậm chí không bao giờ tiếp cận được các khoản vay để phục vụ cho mục đích của mình khi cần, chỉ với một lý do duy nhất là không đủ tín nhiệm với bên cho vay. Sự không đủ tín nhiệm này có thể là không được bảo đảm về vật chất, không có tài sản bảo đảm cho khoản vay ở hộ nghèo, hộ cận nghèo,… hoặc không đủ tín nhiệm về tinh thần, uy tín thấp, ít niềm tin với bên cho vay vì có nhân thân không tốt ở người nhiễm HIV, sau cai nghiện ma túy, mại dâm hoàn lương… Việc có hẳn một chế định pháp luật về tín dụng được coi là đặc thù áp dụng cho nhóm khách hàng này giúp họ giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn trong cuộc sống, giảm gánh nặng an sinh xã hội và góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững mà Đảng và Nhà nước đã và đang phấn đấu đạt được.

Bên cạnh việc bên đi vay phải thỏa mãn các điều kiện chung khi tiếp cận với các khoản vay như: i) có năng lực chủ thể pháp luật dân sự và tự chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; ii) mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; iii) có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật, tùy từng đối tượng cụ thể mà người vay thuộc nhóm chủ thể được coi là yếu thế này cần phải thỏa mãn các điều kiện khác theo quy định.

Đánh giá sơ bộ về hiệu quả thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở Việt Nam thời gian qua

Việc thực thi chính sách tín dụng cho người yếu thế ở nước ta giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành công nhất định. Vốn tín dụng chính sách xã hội được đầu tư cho phát triển sản xuất, tạo sinh kế, tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cụ thể:

Thứ nhất, Chương trình tín dụng hộ nghèo: NHCSXH cho vay đối với hộ nghèo góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo và ổn định xã hội.

Thứ hai, Chương trình tín dụng hộ cận nghèo: Được thực hiện từ năm 2013 theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ cận nghèo vay sản xuất kinh doanh, giúp hộ vay tăng thu nhập, cải thiện đời sống, giảm nguy cơ tái nghèo.

Thứ ba, Chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo: Ngày 21/7/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 28/2013/QĐ-TTg về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo đã thể hiện sự quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Chính sách này được cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và nhân dân phấn khởi đón nhận, đáp ứng được nguyện vọng của cử tri cả nước; giúp cho các hộ mới thoát nghèo trong vòng 3 năm tiếp tục được vay vốn ưu đãi lãi suất thấp để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Thứ tư, Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Nguồn vốn này đã giúp các hộ gia đình được sử dụng nước sạch, công trình nhà tiêu hợp vệ sinh; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Thứ năm, Chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm: Nguồn vốn tín dụng đã góp phần tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, mở rộng sản xuất, phát triển các ngành nghề, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa ở nông thôn.

Thứ sáu, Chương trình tín dụng học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: Đây là chương trình tín dụng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc cả về kinh tế, chính trị và xã hội, duy trì hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo có điều kiện tiếp tục theo học, ảnh hưởng tích cực trong công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần tạo nguồn nhân lực cho đất nước.

Thứ bảy, Chương trình cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: Thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ các hộ nghèo để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững.

Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách về tín dụng đối với người yếu thế ở Việt Nam trong thời gian tới

Hoàn thiện pháp luật về tín dụng đối với người yếu thế phải phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng

Một là, quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân[4].

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần xác định nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trong chương trình và kế hoạch, hoạt động thường xuyên của các cấp ủy, các ngành, địa phương và đơn vị. Tổ chức thực hiện tốt chủ trương huy động các nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững. Nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội; công tác điều tra, xác định đối tượng được vay vốn; phối hợp giữa các hoạt động huấn luyện kỹ thuật, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ với hoạt động cho vay vốn của NHCSXH, giúp người vay sử dụng vốn có hiệu quả.

Ba là, nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò tập hợp lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách khác; nâng cao hiệu quả giám sát của toàn dân đối với công tác này. Các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác của NHCSXH có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung được ủy thác; phối hợp chặt chẽ với NHCSXH và chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội; hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả; lồng ghép với các chương trình, dự án của các tổ chức chính trị - xã hội. Làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu[5].

Hoàn thiện pháp luật về tín dụng cho người yếu thế phải đặt trong bối cảnh tổng thể của Chương trình tài chính toàn diện quốc gia

Thứ nhất, thực hiện tài chính toàn diện có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của khu vực nhà nước với khu vực tư nhân. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tài chính toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, thúc đẩy tài chính toàn diện đi đôi với sự an toàn, hiệu quả và bền vững của cả hệ thống tài chính, bảo vệ người tiêu dùng.

Thứ ba, mục tiêu đặt ra là mọi người dân, đặc biệt là những người thuộc nhóm yếu thế đều phải được tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng một cách thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả khi có nhu cầu và đủ điều kiện.

Hoàn thiện pháp luật về tín dụng cho người nghèo phải bảo đảm tính đồng bộ với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan

Về nguyên tắc, bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào, chỉ được coi là hoàn thiện khi có sự tương thích, không mâu thuẫn, không chồng chéo, đồng bộ, hài hòa với các văn bản thuộc các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là các đạo luật chung, luật gốc, luật cơ bản và có giá trị pháp lý cao hơn. Pháp luật về tín dụng cho người yếu thế cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó, cụ thể: phải phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng… về các vấn đề như: (i) chủ thể của hợp đồng; (ii) các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; (iii) lãi suất cơ bản… Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tín dụng chính sách theo hướng ổn định, có tính dự báo. Nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách: tạo lập nguồn vốn, trong đó chú ý tới chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp vào nguồn vốn tín dụng chính sách; quy định rõ đối tượng vay vốn, lãi suất ưu đãi; các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguồn vốn; quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tín dụng, của các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác (tín chấp).

[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

[2]Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

[3] Nguyễn Hữu Thu (2020), Phát triển tín dụng cho hộ nghèo ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên (p.30-45).

[4] Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lẩn thứ XIII.

[5] Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 06-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

2. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

3. Chương VI, Luật Quốc tế về quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương, http://fdvn.vn/storage/uploads/2019/08/luu-ban-nhap-tu-dong-7-1.pdf, truy cập ngày 19/5/2021.

4. Luật Phòng chống thiên tai năm 2013.

5. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.

6. Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

7. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

8. Quyết định số 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

9. Nguyễn Hữu Thu (2020), Phát triển tín dụng cho hộ nghèo ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên.

10. Trang Chính trị - xã hội, Người yếu thế vẫn thế, https://anninhthudo.vn/nguoi-yeu-the-van-the-post148220.antd, truy cập ngày 12/3/2021.

Tiến sĩ LÊ NGỌC THẮNG

Học viện Ngân hàng

Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị