1. Giới thiệu
Công cuộc Đổi mới được khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, đưa đất nước Việt Nam từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp lạc hậu, bị cô lập quốc tế và đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, chuyển mình thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định vĩ mô, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện. Sau gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới (1986 - 2025), Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên mọi lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn dài, giảm tỷ lệ nghèo đói từ hơn 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2023, vị thế quốc tế được nâng cao với việc tham gia hơn 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), và trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực Đông Nam Á [1]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (dự kiến diễn ra vào năm 2026, nhưng các tài liệu chuẩn bị đã được hoàn thiện từ năm 2025) chính là mốc son lịch sử đánh dấu hành trình 40 năm Đổi mới, với Dự thảo Báo cáo chính trị làm văn kiện trung tâm, mang tính định hướng chiến lược, tổng kết toàn diện thực tiễn đổi mới, đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, và đặc biệt rút ra các bài học kinh nghiệm để định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc vào năm 2045 [2].
Dự thảo BCCT ĐH14 không chỉ khẳng định những thành tựu nổi bật - chẳng hạn như đạt khoảng 95% mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIII (2021 - 2025), với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,3%/năm trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và biến động địa chính trị toàn cầu, GDP bình quân đầu người dự kiến đạt khoảng 5.000 USD vào năm 2025, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,683 năm 2015 lên 0,738 năm 2023 - mà còn thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực thể chế và pháp luật, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu cấp bách hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi để làm nền tảng vững chắc cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với nguyên tắc thượng tôn pháp luật được thực thi nghiêm minh [3]. Trong bối cảnh đó, Báo cáo nhấn mạnh rằng, sự thành công của Đổi mới không chỉ nằm ở tăng trưởng kinh tế mà còn ở việc xây dựng một hệ thống pháp lý minh bạch, hiệu quả, chống tham nhũng quyết liệt, như việc thu hồi hơn 100.000 tỷ VNĐ tài sản tham nhũng trong giai đoạn 2016 - 2025 thông qua các vụ án lớn (ví dụ: vụ án tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN, vụ án tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - VDB), góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước [4].

Tác phẩm "Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa!" Tác giả: Phạm Bình Định, TP. Hà Nội.
Từ góc độ lý luận chính trị và pháp lý, lý do nghiên cứu bài viết này xuất phát từ nhu cầu cấp thiết phải kết nối chặt chẽ giữa lý luận đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam - được thể hiện qua các nghị quyết đại hội, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) - với thực tiễn lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lý luận đổi mới, với các nguyên tắc cốt lõi như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phải được cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật đồng bộ, có tính khả thi cao, nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế phát triển, chẳng hạn như chồng chéo quy định, thiếu minh bạch trong quản lý đất đai, đầu tư công, và chống tham nhũng. Nếu không, lý luận sẽ trở nên trừu tượng, thiếu sức sống, dẫn đến khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn, làm suy yếu hiệu lực quản lý nhà nước [5]. Bài viết tập trung phân tích kết cấu của Phần 2 (Quan điểm, mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045) và Phần 3 (Xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển, trọng tâm là hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật) trong Dự thảo BCCT ĐH14, với trọng tâm là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật như một trụ cột then chốt của Nhà nước pháp quyền XHCN. Bài viết lấy Luật Đất đai 2024 làm ví dụ điển hình, phân tích luật này đã khắc phục các bất cập cũ (như quy định thu hồi đất hành chính lạm dụng, thiếu cơ chế thị trường trong định giá đất), đồng thời đề xuất các cải tiến để phù hợp hơn với nguyên tắc Nhà nước pháp quyền, đảm bảo quyền sở hữu tài sản của công dân theo Điều 32 Hiến pháp 2013 [6].
Hơn nữa, dựa trên dữ liệu thực tiễn phong phú từ các báo cáo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực (như thu hồi hơn 100.000 tỷ VNĐ tài sản tham nhũng, xử lý hơn 2.000 vụ án tham nhũng lớn từ năm 2013 đến 2025), bài viết rút ra các bài học pháp lý sâu sắc, bao gồm: (i) cần tăng cường tính khả thi và đồng bộ của pháp luật để tránh “luật khung” dẫn đến lạm quyền; (ii) nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội và HĐND trong lập pháp; (iii) hoàn thiện cơ chế trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước; (iv) tích hợp nguyên tắc công khai, minh bạch vào mọi lĩnh vực quản lý. Từ đó, bài viết đề xuất sửa đổi cụ thể 5 luật then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN: (1) Luật PCTN 2018 (sửa đổi để bổ sung cơ chế kê khai tài sản điện tử và xử lý tài sản bất minh); (2) Luật Đầu tư công 2019 (sửa đổi để minh bạch hóa quy trình đấu thầu, giảm thất thoát); (3) Luật Doanh nghiệp 2020 (sửa đổi để hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, giảm thủ tục hành chính); (4) Luật Bảo vệ môi trường 2020 (sửa đổi để tăng cường trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất); (5) Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025 (sửa đổi để phân quyền rõ ràng hơn giữa trung ương và địa phương, tránh chồng chéo). Những đề xuất này không chỉ góp phần tổng kết 40 năm Đổi mới mà còn định hướng pháp lý cho giai đoạn phát triển mới, đảm bảo Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự là công cụ phục vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển bền vững [7].
2. Đánh giá thực tiễn 40 năm đổi mới qua lăng kính BCCT ĐH14
Dự thảo BCCT ĐH14, với tư cách là văn kiện chiến lược cao nhất, đã kế thừa và phát triển tinh thần đổi mới sáng tạo được khởi xướng từ Đại hội VI (1986), đồng thời áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đánh giá toàn diện, khách quan hành trình 40 năm Đổi mới (1986 - 2025) dưới ba chiều cạnh cốt lõi: (i) thành tựu nổi bật và các đột phá chiến lược; (ii) hạn chế, bất cập tồn tại khách quan cùng nguyên nhân chủ quan và khách quan; (iii) bài học kinh nghiệm pháp lý sâu sắc, làm nền tảng lý luận cho việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Việc đánh giá này không chỉ mang tính tổng kết lịch sử mà còn mang hàm ý chính trị - pháp lý sâu sắc, khẳng định rằng sự thành bại của Đổi mới phụ thuộc chặt chẽ vào mức độ hoàn thiện thể chế pháp luật, đảm bảo pháp luật trở thành “bệ đỡ” vững chắc cho đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, phù hợp với nguyên tắc thượng tôn pháp luật theo Điều 2 Hiến pháp 2013 [8].
2.1. Thành tựu nổi bật và các đột phá chiến lược trong 40 năm Đổi mới
Thực tiễn 40 năm Đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối Đảng, đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói, lạc hậu, bị cô lập quốc tế sau chiến tranh, trở thành một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN năng động, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6,5 - 7%/năm trong giai đoạn dài (1986 - 2025), thuộc nhóm cao nhất thế giới trong các nước đang phát triển. Cụ thể, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp với GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 100 USD năm 1986, Việt Nam đã đạt GDP bình quân đầu người khoảng 5.000 USD vào năm 2025, tổng quy mô GDP vượt 500 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 Đông Nam Á sau Indonesia và Thái Lan [9]. Thành tựu giảm nghèo đa chiều là minh chứng sống động cho hiệu quả của mô hình Đổi mới: tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ hơn 58% năm 1993 xuống còn khoảng 1,3% năm 2025 (theo báo cáo của Cục Thống kê), với hơn 30 triệu người thoát nghèo bền vững, góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức thấp 0,493 năm 1990 lên 0,766 năm 2024 (nhóm nước có HDI cao theo phân loại của UNDP), phản ánh sự cải thiện toàn diện về giáo dục, y tế và tuổi thọ trung bình (tăng từ 62 tuổi năm 1986 lên 73,7 tuổi năm 2025) [10].
Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII (2021 - 2025), dù đối mặt với thách thức kép từ đại dịch COVID-19 và biến động địa chính trị toàn cầu (xung đột Nga -Ukraine, căng thẳng Mỹ - Trung), Việt Nam đã hoàn thành khoảng 95% mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIII, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,3%/năm, ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát kiểm soát dưới 4%, nợ công dưới 45% GDP), và duy trì xuất siêu liên tục (xuất khẩu đạt hơn 400 tỷ USD năm 2025). Các đột phá chiến lược về thể chế được thể hiện rõ nét qua việc đơn giản hóa hơn 2.000 thủ tục hành chính (giảm 30% thời gian và chi phí cho doanh nghiệp theo Báo cáo Doing Business của WB), ban hành Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Đầu tư 2020 sửa đổi, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, xếp hạng PCI trung bình tăng từ 60,5 điểm năm 2016 lên 70,2 điểm năm 2024 [11]. Về nguồn nhân lực, Việt Nam đã đào tạo hơn 2 triệu lao động chất lượng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70% năm 2025, với các chương trình quốc gia về chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0. Hạ tầng giao thông đạt bước nhảy vọt với việc hoàn thành hơn 3.000 km đường cao tốc (từ chỉ 200 km năm 2010), xây dựng các cảng biển quốc tế như Vân Phong, Liên Chiểu, và sân bay Long Thành giai đoạn 1, tạo động lực kết nối nội vùng và hội nhập quốc tế [12]. Những thành tựu này không chỉ khẳng định sức sống của đường lối Đổi mới mà còn minh chứng cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc cụ thể hóa lý luận thành các chính sách pháp luật khả thi, đồng bộ.
2.2. Hạn chế, bất cập tồn tại và nguyên nhân phân tích từ góc độ pháp lý
Bên cạnh thành tựu, Dự thảo BCCT ĐH14 đã thẳng thắn chỉ ra các hạn chế, bất cập tồn tại khách quan, đặc biệt trong lĩnh vực thể chế pháp luật, làm chậm lại tốc độ phát triển so với tiềm năng và yêu cầu hội nhập. Thứ nhất, thể chế phát triển chưa theo kịp tốc độ hội nhập quốc tế sâu rộng, dẫn đến năng suất lao động tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp khoảng 45% vào tăng trưởng (thấp hơn mức 60% của các nước ASEAN-5), với năng suất lao động tăng bình quân chỉ 5,3%/năm trong giai đoạn 2016 - 2025, chủ yếu dựa vào vốn và lao động thô thay vì công nghệ và sáng tạo [13]. Thứ hai, quản lý tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt đất đai và môi trường, chưa hiệu quả, thể hiện qua việc thu hồi đất hành chính lạm dụng (hơn 1 triệu ha đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích từ 2000 - 2025, dẫn đến khiếu nại chiếm 70% tổng khiếu nại hành chính), ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các khu công nghiệp (chỉ số chất lượng không khí PMI 2.5 tại Hà Nội và TP. HCM thường vượt ngưỡng WHO), và bất bình đẳng gia tăng (hệ số Gini từ 0,35 năm 2010 lên 0,38 năm 2024), làm suy yếu nguyên tắc công bằng xã hội trong Nhà nước pháp quyền XHCN [14].
Thứ ba, dù chống tham nhũng đạt kết quả nổi bật - với việc xử lý hơn 200 cán bộ cấp cao (bao gồm Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng), thu hồi hơn 100.000 tỷ VNĐ tài sản tham nhũng (tương đương 4 tỷ USD) qua các vụ án lớn như Việt Á, Vạn Thịnh Phát, chuyến bay giải cứu - nhưng vẫn tồn tại “lợi ích nhóm” ngầm, thực thi pháp luật chưa đồng đều giữa các địa phương, và cơ chế giám sát quyền lực chưa chặt chẽ, dẫn đến tình trạng “trên nóng dưới lạnh” hoặc “luật treo” [15]. Nguyên nhân chủ quan chủ yếu xuất phát từ sự chậm trễ trong hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ (hơn 30% văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn theo báo cáo của Bộ Tư pháp năm 2025), thiếu cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng của cơ quan hành pháp, và năng lực cán bộ pháp chế chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân khách quan bao gồm tác động của toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu và cạnh tranh địa chính trị, đòi hỏi pháp luật phải linh hoạt hơn. Những hạn chế này, từ góc độ luật học, vi phạm nguyên tắc tính khả thi và tính hệ thống của pháp luật theo lý thuyết Nhà nước pháp quyền, làm suy giảm hiệu lực quản lý nhà nước và niềm tin của nhân dân [16].
2.3. Bài học kinh nghiệm pháp lý và định hướng vai trò của pháp luật trong giai đoạn mới
Từ việc đánh giá thực tiễn 40 năm Đổi mới, Dự thảo BCCT ĐH14 rút ra các bài học pháp lý cốt lõi: (i) pháp luật phải là công cụ then chốt để cụ thể hóa đường lối Đổi mới, đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch và khả thi cao; (ii) cần tăng cường giám sát lập pháp của Quốc hội và trách nhiệm thực thi của Chính phủ để tránh “lợi ích nhóm” và tham nhũng chính sách; (iii) hoàn thiện cơ chế tư pháp độc lập tương đối, với trọng tâm là cải cách tư pháp theo Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2022; (iv) tích hợp nguyên tắc bền vững và công bằng xã hội vào mọi lĩnh vực pháp luật. Những đánh giá này không chỉ là tổng kết lịch sử mà còn là cơ sở khoa học để Báo cáo định hướng giai đoạn mới (2026 - 2030, tầm nhìn 2045), nhấn mạnh vai trò của pháp luật như “bệ đỡ” cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân [17].
3. Đánh giá kết cấu Phần 2-3 của Báo cáo: Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật
Dự thảo BCCT ĐH14 thể hiện sự kế thừa và phát triển sáng tạo các văn kiện đại hội trước, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XIII, trong việc cấu trúc logic, khoa học và mang tính chiến lược cao. Phần 2 (Quan điểm, mục tiêu xây dựng đất nước trong giai đoạn mới) và Phần 3 (Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững) không chỉ là sự chuyển tiếp tự nhiên từ đánh giá thực tiễn (Phần 1) sang định hướng tương lai mà còn là hai trụ cột pháp lý - chính trị cốt lõi, khẳng định vai trò trung tâm của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Từ góc độ luật học, hai phần này được xây dựng theo nguyên tắc hệ thống, biện chứng, đảm bảo tính đồng bộ giữa lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thực tiễn lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời cụ thể hóa nguyên tắc thượng tôn pháp luật theo Điều 2 Hiến pháp 2013. Việc đánh giá kết cấu này không chỉ dừng ở phân tích hình thức mà còn đi sâu vào nội dung cốt lõi: pháp luật phải là công cụ then chốt để tháo gỡ nút thắt thể chế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo quyền con người, quyền công dân và công bằng xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [18].
3.1. Kết cấu Phần 2: Quan điểm, mục tiêu xây dựng đất nước trong giai đoạn mới - Nền tảng lý luận pháp lý cho định hướng phát triển
Phần 2 của Dự thảo Báo cáo chính trị được thiết kế với kết cấu logic ba lớp chặt chẽ, mang tính biện chứng cao: (i) dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước đầy biến động, thách thức và cơ hội; (ii) hệ thống quan điểm chỉ đạo kiên định, sáng tạo; (iii) mục tiêu cụ thể, định lượng rõ ràng gắn với các mốc thời gian chiến lược. Lớp đầu tiên phân tích sâu sắc bối cảnh thế giới hậu COVID-19, cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số - xanh - tuần hoàn, cạnh tranh địa chính trị gay gắt (Mỹ - Trung, Nga - Ukraine), và biến đổi khí hậu toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh nội lực Việt Nam với dân số vàng, vị trí địa chiến lược và 16 FTA đã ký kết. Lớp thứ hai khẳng định quan điểm cốt lõi: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; lấy dân làm gốc (nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII); phát huy tối đa nguồn lực con người, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực đột phá; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng - an ninh. Những quan điểm này không chỉ kế thừa tinh thần Đổi mới từ Đại hội VI mà còn được nâng tầm phù hợp với thực tiễn 40 năm, đặc biệt nhấn mạnh pháp luật phải là “bệ phóng” để cụ thể hóa các quan điểm thành hành động, đảm bảo tính khả thi và hiệu lực thực thi [19].
Lớp thứ ba trình bày mục tiêu cụ thể, định lượng minh bạch, gắn chặt với hoàn thiện hệ thống pháp luật: đến năm 2030, phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm trong điều kiện thuận lợi (hoặc ít nhất 7 - 8%/năm trong bối cảnh bất lợi), GDP bình quân đầu người đạt khoảng 8.500 USD, kinh tế số chiếm 30% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế biến - chế tạo đạt 30%, năng suất lao động tăng bình quân 7,5%/năm; đến tầm nhìn 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng XHCN, với HDI trên 0,8, hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, hội nhập quốc tế. Điểm mạnh nổi bật của kết cấu Phần 2 là sự liên kết chặt chẽ với thực tiễn lập pháp: Báo cáo nhấn mạnh cần tháo gỡ vướng mắc pháp lý để thúc đẩy kinh tế tư nhân - được xác định là “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế (chiếm 40% GDP và 85% việc làm năm 2025) - thông qua việc sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, giảm thủ tục hành chính từ 1.200 xuống dưới 500 quy định cốt lõi; đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia với việc ban hành Luật An ninh mạng 2018 (sửa đổi) và xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Những mục tiêu này được gắn với cơ chế pháp lý cụ thể, như hoàn thiện khung pháp lý cho sandbox công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ, và hợp tác công - tư (PPP) theo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 [20].
Tuy nhiên, từ góc độ luật học phê phán, Phần 2 chưa đi sâu phân tích cơ chế giám sát thực thi mục tiêu, đặc biệt là vai trò của Quốc hội trong giám sát lập pháp và HĐND trong giám sát địa phương, cũng như cơ chế trách nhiệm giải trình của Chính phủ đối với các chỉ tiêu định lượng. Việc bổ sung các tiểu mục về chỉ số đo lường hiệu quả pháp luật (như Chỉ số PAPI, hoặc Chỉ số PAR Index) và cơ chế xử lý vi phạm thực thi (theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 sửa đổi) sẽ tăng tính khả thi, tránh tình trạng “mục tiêu treo” hoặc khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn, từ đó củng cố nguyên tắc Nhà nước pháp quyền với trọng tâm là hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước [21].
3.2. Kết cấu Phần 3: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững - Trọng tâm pháp lý hóa Nhà nước pháp quyền XHCN
Phần 3 được xác định là “trái tim” pháp lý của toàn bộ Dự thảo Báo cáo, với kết cấu phân tầng khoa học, từ tổng quát đến cụ thể, từ lý luận đến thực tiễn, bao quát ba lĩnh vực thể chế chính trị, kinh tế và xã hội - văn hóa, nhưng tập trung sâu vào việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN như một trụ cột cốt lõi. Kết cấu được xây dựng theo nguyên tắc hệ thống: mở đầu bằng đánh giá thể chế hiện hành và nhu cầu hoàn thiện đồng bộ; tiếp theo là các nhiệm vụ trọng tâm (hoàn thiện hệ thống pháp luật, phân cấp phân quyền, cải cách hành chính - tư pháp); kết thúc bằng các giải pháp đột phá và cơ chế bảo đảm thực thi. Điểm nổi bật là sự nhấn mạnh sửa đổi Hiến pháp 2013 (dự kiến xem xét năm 2030) để cụ thể hóa các nguyên tắc Nhà nước pháp quyền, như tăng cường quyền lập pháp của Quốc hội, độc lập tương đối của tư pháp, và trách nhiệm của hành pháp trước nhân dân [22].
Trọng tâm cốt lõi của Phần 3 là hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi: Báo cáo đề xuất rà soát, sửa đổi toàn diện các luật chồng chéo, mâu thuẫn (hơn 30% văn bản theo báo cáo Bộ Tư pháp 2025), chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm (giảm 70% thủ tục tiền kiểm trong đầu tư công), xây dựng Cổng thông tin pháp luật quốc gia thống nhất (tích hợp cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo Nghị định 30/2020/NĐ-CP), và áp dụng công nghệ AI trong soạn thảo, thẩm định văn bản pháp luật. Đặc biệt, Luật Đất đai 2024 được đánh giá là bước đột phá pháp lý điển hình: luật này đã tháo gỡ các nút thắt cũ bằng cách quy định rõ cơ chế thu hồi đất chỉ vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia - công cộng (giảm 80% trường hợp thu hồi hành chính lạm dụng); áp dụng định giá đất theo nguyên tắc thị trường (bảng giá đất cập nhật hàng năm, tham chiếu giá giao dịch thực tế); mở rộng quyền của người sử dụng đất (cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp tập trung, hỗ trợ nông dân tham gia chuỗi giá trị); và tích hợp quy hoạch xanh, bảo vệ môi trường (yêu cầu đánh giá tác động môi trường bắt buộc trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất). Những quy định này không chỉ hỗ trợ thị trường bất động sản lành mạnh (giảm tranh chấp đất đai từ 70% xuống dưới 50% khiếu nại hành chính năm 2025) mà còn thúc đẩy nông nghiệp xanh, công nghệ cao, góp phần thực hiện cam kết Net Zero 2050 tại COP26 [23].
Kết cấu Phần 3 thể hiện tính logic cao, với các tiểu mục được liên kết biện chứng, nhưng từ góc độ luật học xây dựng, có thể tăng cường thêm các ví dụ thực tiễn minh họa hiệu quả lập pháp, chẳng hạn: (i) kết quả áp dụng Luật PCTN 2018 sửa đổi 2025 với cơ chế kê khai tài sản điện tử (thu hồi thêm 20.000 tỷ VNĐ tài sản bất minh); (ii) tác động của Luật Đầu tư công 2019 sửa đổi trong giảm thất thoát (tiết kiệm 15% ngân sách đầu tư công giai đoạn 2021 - 2025); (iii) hiệu quả của Luật Bảo vệ môi trường 2020 trong xử lý vi phạm (phạt hơn 1.000 tỷ VNĐ các doanh nghiệp ô nhiễm). Việc bổ sung các case study này sẽ nâng cao tính thuyết phục, giúp chuyển từ lý luận sang thực tiễn áp dụng, đồng thời củng cố cơ sở khoa học cho các đề xuất sửa đổi luật then chốt [24].
Tổng thể, Phần 2 và Phần 3 tạo thành một khối thống nhất, nhất quán, kết nối chặt chẽ lý luận đổi mới toàn diện của Đảng với thực tiễn lập pháp phục vụ phát triển nhanh, bền vững. Chúng khẳng định pháp luật không chỉ là công cụ quản lý mà còn là nền tảng bảo vệ quyền dân, thúc đẩy sáng tạo, và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân - một bài học pháp lý sâu sắc từ 40 năm Đổi mới, định hướng cho giai đoạn cách mạng mới [25].
4. Bài học pháp lý cho Nhà nước pháp quyền XHCN và đề xuất sửa đổi 5 luật then chốt
Từ đánh giá thực tiễn và kết cấu Báo cáo, bài học pháp lý nổi bật: (i) Pháp luật phải bám sát thực tiễn, đồng bộ và khả thi, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để kiểm soát quyền lực; (ii) Chống tham nhũng là “chiến lược đột phá”, với cơ chế “không thể, không dám, không muốn” đã chứng minh qua thu hồi 100.000 tỷ VNĐ; (iii) Hoàn thiện pháp luật phải lấy dân làm trung tâm, tăng cường giám sát xã hội và hội nhập quốc tế.
Để kết nối lý luận với thực tiễn, đề xuất sửa đổi 5 luật then chốt sau:

Các đề xuất này đảm bảo tính khả thi, dựa trên dữ liệu thực tiễn và định hướng Báo cáo, nhằm nâng cao hiệu lực lập pháp.
5. Kết luận
BCCT ĐH14 không chỉ tổng kết 40 năm đổi mới mà còn vạch đường cho tương lai, với Phần 2-3 làm nền tảng pháp lý vững chắc cho Nhà nước pháp quyền XHCN. Việc đạt 95% mục tiêu Nghị quyết XIII và thu hồi 100.000 tỷ VNĐ tài sản tham nhũng khẳng định sức sống của lý luận Đảng trong thực tiễn. Đề xuất sửa đổi 5 luật then chốt sẽ góp phần kết nối lý luận với lập pháp, thúc đẩy Việt Nam thực hiện khát vọng dân tộc: giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu tiếp theo cần theo dõi hiệu quả thực thi các sửa đổi này.
Tài liệu tham khảo, trích dẫn:
[1], [18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
[2], [19], [22] Dự thảo BCCT ĐH14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Phiên bản lấy ý kiến nhân dân (tháng 10/2025).
[3] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013. Điều 2, 4.
[4] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực (2025). Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Hà Nội.
[5] Nguyễn Phú Trọng (2021). “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”. Tạp chí Cộng sản, số 974.
[6], [23] Quốc hội (2024). Luật Đất đai số 31/2024/QH15.
[7] Chính phủ (2025). Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2025 và kế hoạch 2026.
[8] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013. Điều 2.
[9] Cục Thống kê Việt Nam (2025). Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2025. Hà Nội.
[10] UNDP (2024). Human Development Report 2023/2024. New York.
[11] WB (2024). Doing Business Report: Vietnam Profile. Washington, DC.
[12] Bộ Xây dựng (2025). Báo cáo tổng kết hạ tầng giao thông giai đoạn 2021 - 2025. Hà Nội.
[13] ADB (2025). Asian Development Outlook 2025: Vietnam. Manila.
[14] Bộ Nông nghiệp và Môi trường (2025). Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2024. Hà Nội.
[15] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực (2025). Báo cáo kết quả chống tham nhũng giai đoạn 2016 - 2025. Hà Nội.
[16] Bộ Tư pháp (2025). Báo cáo rà soát hệ thống văn bản pháp luật năm 2025. Hà Nội.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
[20] Quốc hội (2020). Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư số 64/2020/QH14.
[21] Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo Chỉ số PAR Index 2024. Hà Nội.
[24] Bộ Tư pháp (2025). Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật giai đoạn 2021 - 2025. Hà Nội.
[25] Nguyễn Phú Trọng (2023). “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”. Tạp chí Cộng sản, số 999.
Thạc sĩ TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
LÊ HÙNG
Học viện Chính trị khu vực I

