/ Trao đổi - Ý kiến
/ Trách nhiệm của cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư trong thời kì hội nhập

Trách nhiệm của cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư trong thời kì hội nhập

18/04/2023 09:15 |

(LSVN) - Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế là một trong những mục tiêu hướng đến công cuộc xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, hoạt động Luật sư có những chuyển biến tích cực, khẳng định được uy tín trong xã hội. Các cấp, các ngành trong thời gian qua đã có nhiều biện pháp nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này. Tuy nhiên, những hiệu quả đạt được chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, vị trí, vai trò của luật sư chưa được đề cao trong xã hội do nhiều nguyên nhân. Có thể kể đến như những hạn chế bất cập trong công tác đào tạo ở bậc cử nhân, những tiêu chuẩn, điều kiện, tập sự và công nhận luật sư, quản lý hoạt động nghề nghiệp Luật sư, tính chuyên nghiệp của Luật sư cũng như những hạn chế của bản thân Luật sư. Bài viết trên cơ sở tiếp cận về trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, các tổ chức xã hội trong việc bảo đảm, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nguồn nhân lực này trên cơ sở các phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng về trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư trong việc đào tạo kiến thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp và thực tiễn đào tạo, quản lý nguồn nhân lực này ở Việt nam thông qua các số liệu, thông tin thứ cấp, từ đó khuyến nghị các giải pháp góp phần về tổ chức, đào tạo, quản lý nguồn nhân lực Luật sư chất lượng, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực Luật sư trong thời kì hội nhập.

Ảnh minh họa.

1. Đặt vấn đề

Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và Nhà nước và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Do vậy, để trở thành Luật sư chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả đáp ứng kỳ vọng, đòi hỏi phải phải có trình độ chuyên môn tối thiểu bậc cử nhân luật và được đào tạo rèn luyện kỹ năng nghề Luật sư theo quy định và muốn được hành nghề Luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư để sinh hoạt. Điều 2, Luật Luật sư 2006, sửa đổi, bổ sung 2012 quy định: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn Luật sư được quy định tại Điều 10, Luật Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư. Như vậy, việc đào tạo cử nhân Luật ở Việt Nam thuộc thẩm quyền của các cơ sở đào tạo Luật, đào tạo nghề Luật sư thuộc thẩm quyền Học Viện Tư pháp và trải qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư thuộc thẩm quyền quản lý của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và trực tiếp là các Đoàn Luật sư tại các tỉnh, thành trong cả nước. Trong phạm vi bài viết nhóm tác giả phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn về trách nhiệm của cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư trong thời gian qua đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư từ đó khuyến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề Luật sư đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kì hội nhập.

2. Vị trí, vai trò và các yêu cầu của nghề Luật sư hiện nay

Cùng với những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hóa, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban hành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006. Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao vị thế của Luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ Luật sư, nghề Luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với Luật sư và nghề Luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển vọng mới mẻ cho nghề Luật sư.

Nghề Luật sư là một nghề luật, trong đó các Luật sư bằng kiến thức pháp luật, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nghề Luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì việc hành nghề Luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng của nghề Luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của các Luật sư tại các Tòa án, trọng tài.

Nghề Luật sư thực hiện một số vai trò cơ bản, đó là:

Thứ nhất, với vai trò trợ giúp pháp lý, Luật sư thực hiện sự giúp đỡ, bênh vực không vụ lợi cho những người ở vào vị thế thấp kém. Những người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, vai trò này thể hiện hoạt động của nghề Luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của Luật sư.

Thứ hai, với vai trò vai trò hướng dẫn, Luật sư hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo lý, cũng như để tự bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của họ.

Thứ ba, với vai trò phản biện, biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.

Từ vai trò, đặc thù của nghề Luật sư, ở các nước phát triển nghề Luật sư rất được coi trọng trong xã hội. Người được phép hành nghề Luật sư phải trải qua nhiều chương trình đào tạo khắt khe và phải là người hội đủ nhiều phẩm chất quan trọng như thông minh, trong sáng, trung thực, dũng cảm. Luật sư phải biết lấy pháp luật, đạo đức xã hội, lẽ sống công bằng và chân lý khách quan làm cơ sở cho hoạt động nghề nghiệp thì mới được tin tưởng và trân trọng. Để cung cấp nguồn nhân lực Luật sư có chất lượng và hiệu quả đòi hỏi trong chương trình đào tạo nghề Luật sư cần tiếp cận và trang bị cả kiến thức chuyên ngành và kỹ năng nghề cũng như các kỹ năng mềm đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động nghề luật đáp ứng các yêu cầu của nguồn nhân lực về chất lượng và hiệu quả.

3.  Thực trạng quy định về trách nhiệm của cơ sở đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư đối với đào tạo nghề Luật sư

Pháp luật về đào tạo Luật sư là một bộ phận của pháp luật về Luật sư ở Việt Nam, được quy định trong nhiều văn bản: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002[1]; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020[2]; Pháp lệnh Tổ chức Luật sư  năm 1987, Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 2001 và Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012. Hiện nay, pháp luật về đào tạo Luật sư Việt Nam điều chỉnh các vấn đề cơ bản về trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, quy định về cơ sở đào tạo, thời gian đào tạo, chương trình khung đào tạo… Từ thực trạng quy định pháp luật cho thấy, pháp luật về đào tạo nghề Luật sư hiện hành thiếu vắng các quy định cần thiết. Đó là các quy định về trách nhiệm của chủ thể quản lý Nhà nước về đào tạo nghề Luật sư, trách nhiệm của cơ sở đào tạo cũng như của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư.

3.1. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong đào tạo nghề Luật sư

 Điều 83 Luật Luật sư năm 2012 quy định Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về Luật sư nói chung, bao gồm: quản lý Nhà nước về đào tạo Luật sư. Trong phạm vi thẩm quyền, Bộ Tư pháp có quyền “cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề Luật sư; quy định chương trình khung đào tạo nghề Luật sư; quy định chế độ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của Luật sư; phối hợp với Bộ Tài chính quy định học phí đào tạo nghề Luật sư; quản lý, tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo nghề Luật sư”.

Nghề Luật sư là nghề độc lập, mang tính chất tự quản rất cao. Một mặt, Nhà nước cần đảm bảo cho tính tự quản nghề nghiệp được phát huy cao độ, mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của Luật sư cũng cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp Luật sư. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Luật sư và hoạt động nghề nghiệp của Luật sư ở một số địa phương chưa thật sự đảm bảo hiệu quả cao, còn để xảy ra nhiều sai phạm của Luật sư cả về vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp[3]. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và thể chế hóa bằng các quy định pháp luật, theo đó phải phân biệt rõ hoạt động quản lý Nhà nước với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư. Nhà nước quản lý những nội dung gì? và tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư quản lý những nội dung gì? Trách nhiệm kiểm tra, giám sát như thế nào? Quy trình xử lý các sai phạm của Luật sư, của Đoàn Luật sư ra sao?[4].... Có như vậy, mới bảo đảm hành lang pháp lý vững chắc để Luật sư tuân thủ các quy định của pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình, bảo đảm Luật sư thượng tôn pháp luật, vì công lý, vì lợi ích tốt nhất của khách hàng và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.

3.2. Trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nghề Luật sư

Điều 2 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, trong đó có quy định cơ sở đào tạo nghề Luật sư, bao gồm: Học viện Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp và cơ sở đào tạo nghề Luật sư thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, cơ sở đào tạo nghề Luật sư thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam vẫn chưa được thành lập, Học viện Tư pháp vẫn là cơ sở duy nhất đào tạo nghề Luật sư ở Việt Nam. Học viện được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở trường đào tạo các chức danh tư pháp với nhiệm vụ tập trung thống nhất đầu mối đào tạo các chức danh tư pháp ở Việt Nam. Hiện nay, khi đề cập vấn đề chất lượng đào tạo nghề Luật sư thì đa số các ý kiến đánh giá, nhận xét đều tập trung vào trách nhiệm của cơ sở đào tạo là Học viện Tư pháp. Điều này là hợp lý nhưng chưa đầy đủ và toàn diện. Học viện Tư pháp tuy giữ vị trí đặc biệt và nắm nhiều lợi thế nhưng công tác đào tạo tại cơ sở này phải chịu ảnh hưởng nhiều từ các yếu tố khách quan, đến từ quy định về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước trong quy định khung đào tạo, vai trò, chức năng của từng bên liên quan theo luật hiện hành; vai trò phối hợp tham gia hoạt động đào tạo của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư.[5]

Việc triển khai các quy định hiện hành về đào tạo nghề Luật sư, theo quy định của Luật Luật sư năm 2012 thì tổ chức xã hội nghề nghiệp là Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng được phép tổ chức cơ sở đào tạo và tiến hành đào tạo nghề nhưng đến nay cơ sở này vẫn chưa được ra đời dù đã hình thành đề án và tổ chức nhiều cuộc thảo luận. Vì thế, đến nay, nhiều quan điểm cho rằng việc đào tạo nghề Luật sư vẫn do một cơ sở đào tạo duy nhất tiến hành là Học viện Tư pháp sẽ không tránh khỏi tình trạng Học viện được hưởng những ưu thế nhất định, thiếu đi sự cạnh tranh trong đào tạo, không thể hiện được vai trò đào tạo nghề Luật sư đòi hỏi phải có chương trình đặc thù riêng và do chính các Luật sư có thâm niên, kinh nghiệm sâu sắc trực tiếp đảm trách. Trong khi đó, sự cạnh tranh này chính là một yếu tố thúc đẩy việc đổi mới, nâng cao chất lượng của từng cơ sở đào tạo trên nhiều phương diện như chương trình đào tạo, chất lượng đầu vào cũng như đầu ra, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên theo quan điểm của nhóm tác giả, việc thực hiện chức năng đào tạo nghề Luật sư mang tính học thuật vừa đồng thời mang tính kỹ năng rất cao nên đòi hỏi cần sự chuyên môn hóa và quy củ trong đào tạo. Học viện tư pháp là một đầu mối duy nhất đào tạo nghề Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam thông qua các Đoàn Luật sư để rèn nghề cho Luật sư thông qua tập sự nghề Luật sư và quản lý xác nhận tập sự Luật sư.

Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quyết định không nhỏ đến chất lượng của nguồn nhân lực Luật sư đó là chất lượng đào tạo luật ngay từ bậc đại học. Có thể thấy đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định chất lượng của Luật sư trên cơ sở nền tảng kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng mềm làm nền tảng cho các hoạt động đào tạo nghề Luật sư sau đó. Thực trạng đào tạo hệ cử nhân luật ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề về chất lượng, nhất là các hệ đào tạo tại chức, vừa học vừa làm, chất lượng tuyển sinh đầu vào còn thấp, đội ngũ giảng viên có chỗ, có nơi chưa đảm bảo yêu cầu chuẩn… Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cử nhân luật chủ yếu nặng về lý thuyết mà thiếu kỹ năng thực hành, hầu như sinh viên chưa được làm quen với các công việc/nghề nghiệp liên quan đến pháp luật[6].

Ủy ban Cố vấn Quốc gia về Chất lượng và Tính liêm chính của Thể chế (NACIQI), một chi nhánh của Bộ Giáo dục, đã khiển trách Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ (ABA) vào năm 2016 vì sự giám sát lỏng lẻo của trường luật và “kết quả học tập kém của sinh viên”. Paul LeBlanc, một thành viên NACIQI, đã kết luận rằng ABA “lạc lõng với nghề.” Các trường luật từ lâu đã tập trung vào việc đào tạo sinh viên cách “suy nghĩ như một Luật sư”. Chương trình giảng dạy của họ được thiết kế để: (1) trau dồi tư duy phản biện; (2) dạy giáo lý luật sử dụng phương pháp Socrates; (3) cung cấp các kỹ thuật viết “pháp lý” và sự lưu loát trong “ngôn ngữ pháp luật”; (4) nâng cao kỹ năng thuyết trình và vận động bằng miệng; (4) khuyến khích tâm lý e ngại rủi ro và tránh sai lầm; (5) tinh chỉnh việc xác định vấn đề và “điều gì sẽ xảy ra nếu;” và (6) dạy đạo đức pháp lý. Các kỹ năng thực hành thường đạt được sau khi tốt nghiệp/giấy phép bằng cách đào tạo tại chỗ do khách hàng trợ cấp. Các trường luật vẫn dạy theo cách này ngay cả khi thị trường đã thay đổi rõ rệt, đặc biệt là trong thập kỷ qua. Phân phối hợp pháp hiện là một chiếc ghế ba chân được hỗ trợ bởi chuyên môn pháp lý, kinh doanh và kỹ thuật. Luật không còn chỉ dành cho Luật sư; công ty luật không phải là nhà cung cấp dịch vụ pháp lý mặc định; hành pháp không còn đồng nghĩa với giao pháp; cán cân quyền lực mua/bán hợp pháp đã chuyển từ Luật sư sang người mua hợp pháp; Luật sư không kiểm soát cả hai bên mua/bán hợp pháp; và chức năng và vai trò của hầu hết các Luật sư đang thay đổi khi quá trình chuyển đổi kỹ thuật số đã khiến người tiêu dùng hợp pháp chứ không phải Luật sư trở thành người phân xử giá trị. Những thay đổi này đang ảnh hưởng đến ý nghĩa của việc “suy nghĩ như một Luật sư” và quan trọng hơn là những kỹ năng “pháp lý” nào được yêu cầu trong thị trường ngày nay[7]. Do vậy, nâng cao chất lượng đạo tạo cử nhân luật trong các cơ sở đào tạo đồng thời hướng đến các nhóm Luật sư chuyên sâu trong một số lĩnh vực bên cạnh thực trạng đào tạo hiện nay năng về Luật sư tranh tụng.

3.3. Về trách nhiệm trong xây dựng khung đào tạo và tổ chức đào tạo nghề Luật sư

Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định khung về đào tạo nghề Luật sư. Trên cơ sở pháp luật, Bộ đã ban hành Quyết định số 2543/QĐ-BTP ngày 07/12/2016 về ban hành Chương trình khung đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư. Dựa trên chương trình khung được Bộ Tư pháp ban hành, Học viện Tư pháp đã xây dựng chương trình đào tạo nghề Luật sư với cơ cấu khá đa dạng gồm: Chương trình đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư; Chương trình đào tạo nghề Luật sư theo hệ thống tín chỉ; Chương trình đào tạo Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; Chương trình đào tạo Luật sư chất lượng cao. [8]

Tuy nhiên, để đảm bảo tính liên kết và chất lượng trong việc cung cấp kiến thức chuyên ngành và rèn nghề chuyên sâu cho Luật sư theo nhóm tác giả thì cần xây dựng hệ thống chương trình đào tạo từ trình độ cử nhân luật với các tiêu chuẩn và kỹ năng bổ trợ phù hợp với nghề Luật sư là cơ sở để có thời gian cũng như nền tảng cơ bản để rèn nghề (kỹ năng) nghề nghiệp chuyên sâu cho Luật sư thông qua khóa đào tạo Luật sư và được cấp chứng chỉ như hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có sự liên kết, kết nối giữa Bộ tư pháp, Bộ giáo dục đào tạo trực tiếp là Học viện tư pháp và các cơ sở đào tạo luật trong mạng lưới cơ sở Luật Việt Nam đồng thời tham vấn ý kiến của các đơn vị thực tế trong xây dựng chương trình đào tạo từ bậc cử nhân phù hợp với nghề Luật sư.

Cần nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nghề Luật sư trong việc tuyển chọn giảng viên, xây dựng và triển khai khung chương trình đào tạo nghề Luật sư, đó là:

Đổi mới chương trình đào tạo Luật sư thật sự gắn kết với yêu cầu của thực tiễn, trong đó đặc biệt chú trọng đến khâu tuyển chọn giảng viên cơ hữu, cũng như giảng viên thỉnh giảng. Đây là khâu rất quan trọng cần thiết phải nhìn nhận để đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo Luật sư. Cần thiết phải có cơ chế thu hút những cán bộ, công chức, viên chức có trình độ có nhiều năm công tác trong ngành Tư pháp, trong các học viện, các trường… có liên quan đến pháp luật về làm giảng viên cơ hữu đào tạo Luật sư. Đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, cần có chương trình tuyển chọn một cách bài bản để đánh giá được chính xác năng lực giảng dạy cũng như thực tiễn hành nghề Luật sư. Đề ra yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn đối với giảng viên; công khai và tổ chức kỳ thi tuyển chọn hàng năm, ai đạt yêu cầu thì thực hiện việc ký kết hợp đồng giảng dạy. Từ đó sẽ tuyển chọn được những giảng viên thỉnh giảng đạt yêu cầu cả về mặt lý luận và thực tiễn, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Luật sư Việt Nam[9].

Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng hành nghề Luật sư, cần phải có sự nghiên cứu đổi mới công tác đào tạo. Đặc biệt trong chương trình đào tạo Luật sư hiện nay, thời gian dành cho việc tổ chức diễn án khá nhiều (do chính các học viên tự thực hiện các vai diễn) nên khi thực hiện diễn án hoàn toàn bị động khi thiếu chuyên môn và thực tiễn, không tiếp cận được sát với thực tế kỹ năng của Luật sư tại một phiên tòa, vì học viên chỉ đóng vai Luật sư tham gia phiên toà. Đồng thời, bên cạnh Luật sư rèn nghề với các kỹ năng tranh tụng thì cần có các hướng đào tạo và thực hành nghề luật dành cho các kỹ năng tư vấn, Luật sư nội bộ phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực hiện nay.

Ngoài ra, về điều kiện tham gia đào tạo nghề Luật sư cũng là một yếu tố tác động đến chất lượng và hiệu quả trong đào tạo nghề Luật sư. Người có bằng cử nhân Luật được tham dự khóa đào tạo nghề Luật sư tại cơ sở đào tạo nghề Luật sư. Tuy nhiên, để bảo đảm rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu, việc quy định thời gian có thể tham gia khóa đào tạo nghề Luật sư cần có thời gian công tác thực tiễn có thể trợ giúp pháp lý hay trợ lý Luật sư trong thời gian tối thiểu là 01 năm sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật.

4. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong đào tạo nghề Luật sư trong thời kì hội nhập

Thứ nhất, sửa đổi quy định về thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với chương trình đào tạo Luật sư tại khoản 4, Điều 12, Luật Luật sư năm 2012. Trong thời gian tới, có thể xem xét quy định theo hướng Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền phê duyệt Chương trình khung đào tạo Luật sư trên cơ sở đề xuất của cơ sở đào tạo nghề Luật sư thay vì Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định Chương trình khung như hiện nay.

Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có nghiên cứu đồng bộ, thống nhất về yêu cầu của Nhà nước, của xã hội, của nghề nghiệp đối với công tác đào tạo cử nhân luật và đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp mà trong đó có Luật sư. Nhằm đảm bảo việc đào tạo cử nhân luật gắn liền với nghề nghiệp, hướng nghiệp; còn đào tạo nghề nghiệp Luật sư gắn liền với chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu, kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu. Tăng cường sự phối hợp, tham vấn giữa Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước địa phương nhằm đảm bảo nhu cầu Luật sư cũng như bảo đảm việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, pháp chế xã hội chủ nghĩa[10].

Thứ hai, xây dựng bổ sung các quy định về trách nhiệm bảo đảm hiệu quả, bảo đảm chất lượng đào tạo nghề Luật sư. Các quy định này cần mang tính hệ thống, vừa bảo đảm quản lý chất lượng đầu vào, vừa bảo đảm quản lý chất lượng đầu ra và được xây dựng dựa trên nguyên tắc quản lý được thừa nhận theo pháp luật, đó là, kết hợp giữa quản lý Nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư. Khi đó, Bộ Tư pháp thực hiện thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với chất lượng đào tạo nghề Luật sư bằng việc xây dựng và tham gia vào cơ chế phối hợp nhiều bên trên cơ sở chức năng, thẩm quyền, quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của từng bên[11].

Thứ ba, về chương trình đào tạo nghề Luật sư từ bậc đại học đến đào tạo nghề tại Học viện tư pháp cần điều chỉnh 02 năm/lần để đáp ứng nhu cầu thay đổi của dịch vụ pháp lý cung cấp phù hợp với các biến động và thay đổi không ngừng của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập.

Tất cả các trường luật nên cung cấp cho sinh viên tốt nghiệp: một kiến thức về giáo lý luật “cơ bản” bao gồm cả đạo đức pháp lý; tư duy phản biện; con người và kỹ năng hợp tác; kiến thức cơ bản về kinh doanh, công nghệ và phân tích dữ liệu; nhận thức về thị trường; tâm lý học tập suốt đời; và hiểu rằng luật là một nghề và một doanh nghiệp. Các trường luật cũng phải đào tạo sinh viên lấy khách hàng làm trung tâm. Điều này quan trọng hơn nhiều so với cách tiếp cận “lấy Luật sư làm trung tâm” trong quá khứ. Sinh viên phải tốt nghiệp với sự hiểu biết về những gì người tiêu dùng hợp pháp mong đợi ở Luật sư; những kỹ năng nào là cần thiết để đáp ứng những kỳ vọng đó; và đào tạo bổ sung/liên tục nào sẽ cần thiết để thúc đẩy giá trị của khách hàng? Bằng tốt nghiệp trường luật không còn là dấu chấm hết cho quá trình giáo dục chính thức của một người - nó là cơ sở trong một quá trình lâu dài. Điều này đặt ra một thách thức và cơ hội cho các trường luật để trở thành nguồn chính của việc đào tạo liên tục đó[12].

Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện chương trình đào tạo tập sự hành nghề Luật sư thông qua các Đoàn Luật sư. Cùng với đó, xây dựng chương trình đào tạo Luật sư nội bộ và Luật sư tranh tụng và tập sự rèn nghề thực tế của Luật sư theo các hướng chuyên sâu về kỹ năng hành nghề để nâng cao chất lượng Luật sư và thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực Luật sư hiện nay. Thực tế cho thấy, mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số Luật sư ở nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng Luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ các Luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau.

5. Kết luận

Đào tạo nghề Luật sư chất lượng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hội nhập và toàn cầu hóa, bên cạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư của cơ sở đào tạo nghề chuyên ngành trong việc trạng bị các kỷ năng hành nghề và rèn nghề thông qua các tổ chức chính trị xã hội của Luật sư, song song với đó là xác định và phân định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các cơ sở đào tạo luật cơ sở và chuyên sâu cần có sự kết hợp trong xây dựng chương trình đào tạo tạo nên nền tảng kiến thức pháp lý vững chắc và là cơ sở nền tảng trong qua trình đào tạo chuyên sâu về kỷ năng nghề. Bài viết đã khuyến nghị một số giải pháp về hoàn thiện quy định về trách nhiệm của các cơ sở trong đào tạo nghề Luật sư, trong việc xây dựng chương trình đào tạo luật, sự phối kết hợp trong xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo nghề Luật sư đáp ứng yêu cầu hội nhập.

[1] Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

[2] Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[3] Huy Anh, 17 Luật sư bị xóa tên do vi phạm đạo đức nghề nghiệp, http://baophapluat.vn/thoi-su/17-luat-su-bi-xoa-ten-do-vi-pham-dao-duc-nghe-nghiep-330774.html, ngày đăng: 21/4/2017

[4] Nguyễn Văn Bốn, Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị, http:// tcdcpl. moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=304

[5]      Vũ Hoàng Dương, 2021, pháp luật về đào tạo nghề Luật sư và một số kiến nghị hoàn thiện, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/12/14/phap-luat-ve-dao-tao-nghe-luat-su-va-mot-so-kien-nghi-hoan-thien/

[6] Nguyễn Văn Bốn, Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị, http:// tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=304

[7] Forbes, 2018, Trường luật đào tạo cho sinh viên những gì?, https://www.forbes.com/sites/markcohen1/2018/11/19/what-are-law-schools-training-students-for/?sh=53ee0ade64f2

[8] Vũ Hoàng Dương, 2021, pháp luật về đào tạo nghề Luật sư và một số kiến nghị hoàn thiện, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/12/14/phap-luat-ve-dao-tao-nghe-luat-su-va-mot-so-kien-nghi-hoan-thien/

[9] Đinh Duy Bằng, Hoàng Thanh Hoa, 2018, Nâng cao chất lượng Luật sư – Góc nhìn từ giải pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2322.

[10] Trần Trung, 2020, Nghề Luật sư - thực tiễn hành nghề tại Việt Nam, https://bachkhoaluat.vn/cam-nang/2024/nghe-luat-su--thuc-tien-hanh-nghe-tai-viet-nam

[11] Đinh Duy Bằng, Hoàng Thanh Hoa, 2018, Nâng cao chất lượng Luật sư – Góc nhìn từ giải pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2322.

[12] Mark A. Cohen (Nov, 2018), What Are Law Schools Training Students For?

https://www.forbes.com/sites/markcohen1/2018/11/19/what-are-law-schools-training-students-for/?sh=53ee0ade64f2

 

Tài liệu tham khảo

Huy Anh, 17 Luật sư bị xóa tên do vi phạm đạo đức nghề nghiệp, http://baophapluat.vn/thoi-su/17-luat-su-bi-xoa-ten-do-vi-pham-dao-duc-nghe-nghiep-330774.html, ngày đăng: 21/4/2017.

Đinh Duy Bằng, Hoàng Thanh Hoa, 2018, Nâng cao chất lượng Luật sư – Góc nhìn từ giải pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2322.

Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Nguyễn Văn Bốn, Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị, http://tcdcpl. moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=304

Mark A. Cohen (Nov, 2018), What Are Law Schools Training Students For? https://www.forbes.com/sites/markcohen1/2018/11/19/what-are-law-schools-training-students-for/?sh=53ee0ade64f2

Luật đại việt, Nghề Luật sư ở Việt nam – Thực trạng và giải pháp, http://www.luatdaiviet.vn/xem-tin-tuc/-nghe-luat-su-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap

Trần Trung, 2020, Nghề Luật sư - thực tiễn hành nghề tại Việt Nam, https://bachkhoaluat.vn/cam-nang/2024/nghe-luat-su--thuc-tien-hanh-nghe-tai-viet-nam

Forbes, 2018, Trường luật đào tạo cho sinh viên những gì?, https://www.forbes.com/sites/markcohen1/2018/11/19/what-are-law-schools-training-students-for/?sh=53ee0ade64f2

Vũ Hoàng Dương, 2021, pháp luật về đào tạo nghề Luật sư và một số kiến nghị hoàn thiện, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/12/14/phap-luat-ve-dao-tao-nghe-luat-su-va-mot-so-kien-nghi-hoan-thien/

TS. LÊ THỊ THẢO

TS. LS LƯƠNG KHẢI ÂN

PHẠM ĐỨC NGUYÊN HUY

Một số vấn đề cần quan tâm để hạn chế oan, sai

Nguyễn Hoàng Lâm