/ Chưa được phân loại
/ Trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm mở đầu

Trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm mở đầu

12/11/2021 02:48 |3 năm trước

(LSVN) - Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia đã coi là đồng phạm, mà nhiều người đó phải cùng cố ý thực hiện một tội phạm, nếu nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không được xem là đồng phạm.

Ảnh minh họa.

Tùy thuộc vào quy mô, tính chất mà trong vụ án có đồng phạm những người phạm tội có thể giữ vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức (khoản 3 Điều 17 Bộ luật Hình sự (BLHS). Khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm”.

1. Trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành

So với BLHS 1999 thì BLHS 2015 có bổ sung trường hợp “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành” quy định tại khoản 4 Điều 17 BLHS năm 2015.

Thực tiễn cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra. Có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng không có ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra. Đây được xem là hành vi vượt quá của người thực hành.

Qua lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi vượt quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả của hành vi đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, khi xác định trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội của sự vượt quá mà người thực hành đã gây ra. Hành vi vượt quá của người thực hành là hành vi mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Theo khoa học luật hình sự chia hành vi vượt quá ra làm hai loại chính: vượt quá về chất lượng của hành vi và vượt quá về số lượng của hành vi.

Vượt quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi vượt quá đó không có cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi vượt quá cấu thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện.

Vượt quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi vượt quá mà hành vi đó có cùng tình chất với hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện.

Việc phân biệt hai loại hành vi vượt quá như trên chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học, còn trong thực tế xét xử thì những người đồng phạm khác đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.

2. Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng

Đây là một trong những quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015 so với các BLHS trước đó. Dù các BLHS trước đây chưa có quy định, nhưng về mặt lý luận cũng như thực tiễn xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự của người thực hành cũng như những đồng phạm khác trong vụ án có đồng phạm. Tuy đã có quy định cụ thể trong BLHS 2015 những việc áp dụng vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với vụ án phạm tội có tổ chức, khi xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp.

Bởi vì, trong quá trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có những hành vi được những người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không được các đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những hành vi đó xảy ra nhưng thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra.

Ví dụ: Nguyễn Đình A. và Phạm Văn B. bàn nhau về việc cướp tài sản nhà chị P. A. và B. đến nhà trói và nhét giẻ vào trong miệng chị P. A. đi lấy đồ còn B. canh giữ chị P. Do chị P. giãy dụa nên giẻ bị tuột ra, sợ P. kêu cứu nên B. đã bóp cổ P. làm P. bị chết ngạt. Trong trường hợp này, các cơ quan có thẩm quyền có quan điểm khác nhau cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi bóp cổ chị P. của B. là hành vi vượt quá của người thực hành, đồng thời, hành vi này đã cấu thành một tội phạm khác với tội phạm mà cả hai có ý định thực hiện (tội “Giết người” so với tội “Cướp tài sản”) nên B. phạm tội giết người và tội cướp tài sản, còn A. không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của B. nên chỉ phạm tội “Cướp tài sản”. 

Quan điểm thứ hai cho rằng, tuy không bàn bạc với nhau là giết P. nhưng A. bỏ mặc cho B. hành động và không quan tâm đến hậu quả do hành vi đó gây ra, hơn nữa mục đích của B. bóp cổ P. là nhằm tránh bị phát hiện, giúp việc phạm tội được trót lọt điều mà A. cũng mong muốn. Do đó, trong trường hợp này A. cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người của B.

Theo chúng tôi, hành vi bóp cổ chị P. của B. là hành vi dùng vũ lực, dấu hiệu của tội cướp tài sản. Ngoài ra, hành vi này của B. nhằm giúp tội phạm trót lọt, điều mà A. cũng mong muốn, hơn nữa, A. đã bỏ mặc cho B. hành động mà không quan tâm hậu quả xảy ra. Vì vậy, trường hợp này A. cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” do hành vi của B. gây nên.

Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp chỉ căn cứ đơn thuần vào lời nói hoặc hành động của đồng phạm khác (xúi giục, giúp sức…) nhận thấy họ bỏ mặc cho người thực hành thực hiện hành vi phạm tội nên đã buộc những người này phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi vượt quá của người thực hành gây ra. 

Ví dụ: P. vs A. là bạn học cùng lớp, trong quá trình học tập tại trường thì P. thường xuyên bị A. đánh đập và trấn lột tiền. Bị như vậy nên P. có về tâm sự với Q. anh trai của P. và cũng là người có “máu mặt” ở địa phương. Nghe P. kể vậy, Q. liền bảo D. và K. là hai đàn em của mình rằng: “đánh cho nó một trận để lần sau nó không dám bắt nạt em tao nữa, bọn mày bắt nó trả lại tiền cho tao”. Nghe theo lời của Q., D. và K. đã chặn đường và đánh đập A. dã man, được người dân mang đi cấp cứu nhưng A. bị chết do đa chấn thương. 

Trường hợp này, có người cho rằng Q. đã biết trước và bỏ mặc cho D. và K. thực hiện hành vi của mình. Hơn nữa, nguyên nhân hành vi của D và K là do Q. bảo “đánh cho nó một trận để lần sau nó không dám bắt nạt em tao nữa, bọn mày bắt nó trả lại tiền cho tao”. Vì vật, trường hợp này Q. phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò là đồng phạm. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ nội dung câu nói của Q. ta thấy mục đích đánh A. là nhằm đe dọa, dằn mặt A. để lần sau A. không bắt nạt P. nữa đồng thời bắt A. trả lại tiền mà A. đã trấn lột P, vì vậy, trường hợp A chết thì Q sẽ không đạt được mục đích là bắt A phải trả lại tiền. Cho nên, việc D. và K. đánh A. chết là hành vi vượt quá của người thực hành, hậu quả xảy ra ngoài mục đích của Q. Trong trường hợp này Q. sẽ không phải chịu TNHS về tội “Giết người” với vai trò là người xúi giục. Tuy nhiên, căn cứ vào hành vi của Q. thì Q. sẽ bị truy cứu TNHS về tội “Cố ý gây thương tích”.

Thứ ba, việc xác định nguyên nhân gây ra hậu quả của hành vi vượt quá có cùng tính chất với tội phạm mà các đồng phạm cùng bàn bạc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.

Ví dụ: T., Đ., H. cùng bàn bạc để đánh K. do có thù hằn cá nhân. Khi gặp K. thì cả ba đều chạy lại dùng tay chân và gậy đánh đập K. Thấy K gục tại chỗ nên T. bảo Đ. và H.: “Thôi dừng lại, nếu đánh nữa nó chết đấy” sau đó bỏ đi. Nhưng Đ. và H. vẫn ở lại đá vào đầu và bụng K. cho đến khi K. ngất đi mới bỏ đi. Hậu quả K. bị chết. Giám định pháp y kết luận H. chết do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung huyết mất máu cấp. 

Trong trường hợp này, nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của K là gì? Vỡ lá lách hay chảy máu trong hay do mất máu cấp? Sở dĩ việc xác định nguyên nhân chính dẫn đến K. chết giúp xác định được trách nhiệm hình sự của T. Đ. và H. đương nhiên chịu TNHS về tội “Giết người” bởi vì hai người này tham gia đánh K. từ đầu đến cuối. Còn với T., người này phải chịu TNHS về tội giết người với vai trò là người thực hành hay chỉ phải chịu TNHS về tội “Cố ý gây thương tích”?

Hiện nay, ở chính các cơ quan có thẩm quyền còn có nhiều ý kiến khác nhau về trường hợp này. Bởi vì, hai tội này có cùng tính chất và nguyên nhân chính dẫn đến việc K. không được xác định rõ, điều này dẫn đến khó khăn khi đưa ra quyết định về TNHS của T.

LÊ NGỌC NAM

Bàn về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm trong trường hợp kết án sai tội danh

Pháp luật triều Nguyễn quy định như thế nào về thừa kế có chúc thư?

(LSVN) - Căn cứ vào chế độ để tang trong gia đình, có thể thấy thời điểm phát sinh thừa kế theo Luật Gia Long là sau khi đã để tang cha mẹ đủ 3 năm. Quy định này thể hiện sự nhất quán của pháp luật từ chế độ để tang, chia thừa kế, cho đến việc tranh chấp, kiện tụng về gia tài điền sản.

Ảnh minh họa.

Thừa kế trong cổ luật là "thừa kế theo quan hệ huyết thống xuôi, góp phần củng cố tài sản của dòng tộc và tài sản của gia đình truyền thống ăn chung, ở chung theo cơ cấu gia đình hạt nhân và gia đình gồm nhiều thế hệ, bề bậc khác nhau”. Gia đình nhiều thế hệ gồm những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống cùng chung sống với nhau mấy đời liên tiếp: Tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường, lý tưởng là ngũ đại đồng đường. Với mô hình gia đình nhiều thế hệ và ý nghĩa thừa kế trong cổ luật như trên đòi hỏi pháp luật thừa kế phải tôn trọng nguyên tắc "hiếu”, ‘‘lễ”, "nghĩa”.

Thừa kế thường (hay còn gọi là di sản) là tài sản mà người chết đã để lại cho các người thừa kế của mình. Di sản thường gồm có 2 phần là tích sản và tiêu sản. Tích sản là tất cả tài sản của người mệnh một để lại gồm cả bất động sản (ruộng, vườn, nhà, đất...) và động sản hay phù vật (gồm đồ đạc, quần áo, tiền bạc...). Còn tiêu sản là các món nợ mà người chết phải trả cho các đệ tam nhân và các chi phí về việc tang ma cho người ấy.

Nếu các người thừa kế được hưởng phần tích sản thì cũng phải gánh vác cả phần tiêu sản, vì theo nguyên tắc, tất cả gia tài (gồm cả tích sản lẫn tiêu sản) phải được chuyển dịch sang cho các người thừa kế. Cũng giống như pháp luật hiện đại, trong lĩnh vực thừa kế, cổ luật Việt Nam cũng phân biệt ra thành 2 loại là: thừa kế không có chúc thư và thừa kế có chúc thư.

Trong đó, thừa kế có chúc thư là loại thừa kế phát sinh do ý chí của người lập chúc phát biểu vào lúc sinh thời. Các con cháu bao giờ cũng phải tôn trọng đối với ý chí của ông bà, cha mẹ.

Luật Gia Long quy định: “Nếu ông bà, cha mẹ đã di chúc chia của cải thì tôn trưởng cũng không được đi thưa kiện". Đây là hình thức thừa kế phổ biến và thông dụng, nó tôn trọng những quan hệ trong gia đình và quyền của người chủ sở hữu.

Trong cổ luật có hai loại di chúc là di chúc miệng (có thể là lời trăn trối) và di chúc viết (còn gọi là chúc thư). Trong cổ luật Việt Nam, chúc thư là một chứng thư liên quan đến toàn thế gia đình, mặc dù nó có mục đích là ghi ý chí của người lập chúc. Trong bộ Luật Gia Long không thấy nhà làm luật quy định một cách cụ thể về thể thức trong việc viết chúc thư. Nhưng đây là một việc quan trọng, có liên quan đến gia đình và tộc họ, cho nên thông thường, khi lập chúc, thì người lập chúc thư thường muốn các thân thuộc và những người thừa kế của mình cùng tham dự.

Thể thức này có hai điều lợi: một là sự hiện diện của thân thuộc sẽ chứng minh cho sự công băng của việc phân sản; hai là để bảo đảm một cách hữu hiệu đối với các người thừa kế, nhằm tránh sự tranh chấp gia tài về sau. Do sự tham dự của các người thừa kế, nên chúc thư được lập thành nhiều bản và giao cho mỗi người thừa kế giữ một bản.

Về điều kiện nội dung của chúc thư, cổ luật quy định người lập chúc phải có đầy đủ về năng lực và sự ưng thuận. Theo Điều 223 và 224 Luật Gia Long, đối với những người vô năng lực vì phạm tội đại ác hoặc vì chưa thoát quyền của người gia trưởng đều không được phép lập chúc. Đối với người phối ngẫu còn sống cũng được quyền lập chúc bởi vì họ vẫn được quyền điều khiển về khối tài sản của cộng đồng, chỉ khi người quả phụ tái giá thì mới bị mất quyền này. Điều 76 của Luật Gia Long quy định rõ về sự ưng thuận của người lập chúc, cổ luật gián tiếp phủ định về năng lực lập chúc của người điên và minh thị nghiêm trị loại chúc thư giả mạo hoặc do bị cưỡng bách trong khi lập chúc.

Ngoài ra, cổ luật cũng còn có sự quy định về sự tự do lập chúc của người gia trưởng. Với một quyền hạn rất rộng của mình đối với gia sản, nên người gia trưởng có quyền tự do trong việc ấn định về kỷ phần của các người thừa kế và có quyền truất phần thừa kế đối với những người thừa kê bất xứng (như bất hiểu, bất tuân tranh giành...). Sự tự do lập chúc của người gia trưởng chỉ có một giới hạn duy nhất là sự tôn trọng các luật lệ chỉ định người ăn hương hỏa và kỷ phân hương hỏa mà thôi.

Về hiệu lực của chúc thư chỉ phát sinh sau khi người lập chúc mệnh một. Tuy nhiên, nhiều khi để tránh sự tranh giành về sau, nên ngay sau khi lập chúc, vào lúc đang còn sống, nhưng người lập chúc đã tiến hành giao phần thừa kế cho những người được thừa kế. Nếu việc đó không được thực hiện khi người lập chúc còn sống, thì thời điểm mở thừa kế nói chung và thừa kế có chúc thư nói riêng, được luật pháp quy định như sau: “Đương lúc còn để tang cha mẹ, mà anh em tách hộ khẩu, chia hẳn gia sản thì phải phạt 80 trượng".

Như vậy, căn cứ vào chế độ để tang trong gia đình, chúng ta có thể thấy thời điểm phát sinh thừa kế theo Luật Gia Long là sau khi đã để tang cha mẹ đủ 3 năm. Quy định này thể hiện sự nhất quán của pháp luật từ chế độ để tang, chia thừa kế, cho đến việc tranh chấp, kiện tụng về gia tài điền sản.

Luật Gia Long đã ghi rõ là sau 5 năm trở lên thì mới giải quyết về việc thưa kiện chia gia tài điền sản; trừ trường hợp có văn bản phân chia được nộp lên cùng với văn tự bán đất có thật thì mới phải giải quyết, theo đó thì người chủ cũ không được phân chia, không được chuộc lại. Nghĩa là tài sản đó đã được chuyển quyền, mọi việc thưa kiện đều không có giá trị (Điều 89 Lệ 1 của Luật Gia Long).

Có thể thấy, về phương diện hiệu lực, các chúc thư trong cổ luật Việt Nam nói chung và pháp luật của triều Nguyễn nói riêng, đã chứng tỏ là một định chế đặc thù nhằm bảo vệ hữu hiệu về quyền lợi của gia đình cũng như của các người thừa kế. Định chế ấy không thể xếp vào những phạm trù sẵn có trong nên kỹ thuật pháp lý của Tây phương.

CẨM NGỌC

Thừa kế không có chúc thư theo quy định của pháp luật Triều Nguyễn

Trường hợp nào không phải làm thủ tục phải gia hạn sử dụng đất?

(LSVN) – Gia đình tôi đang có một thửa đất nông nghiệp đã hết thời hạn sử dụng. Vậy theo quy định của pháp luật, những trường hợp nào không phải làm thủ tục gia hạn sử dụng đất?

Ảnh minh họa.

Theo khoản 2 Điều 74 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao, công nhận, nhận chuyển quyền sử dụng đất, khi hết thời hạn sử dụng đất thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 126 và khoản 3 Điều 210 của Luật Đất đai mà không phải làm thủ tục điều chỉnh thời hạn sử dụng đất.

Như vậy, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao, công nhận, nhận chuyển quyền sử dụng đất, khi hết thời hạn sử dụng đất thì được tiếp tục sử dụng theo thời hạn là 50 năm mà không phải làm thủ tục điều chỉnh thời hạn sử dụng đất (không bắt buộc phải thực hiện thủ tục điều chỉnh thời hạn sử dụng đất), bao gồm:

- Được giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối.

- Được giao đất trồng cây lâu năm.

- Được giao đất rừng sản xuất.

- Được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối.

- Được giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng.

- Được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp.

- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đang sử dụng đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền (nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế, chuyển đổi).

Trường hợp hộ gia đình, cá nhân quy định trên có nhu cầu xác nhận lại thời hạn sử dụng đất trên Giấy chứng nhận thì thực hiện theo trình tự, thủ tục như sau:

- Người sử dụng đất nộp hồ sơ đề nghị xác nhận lại thời hạn sử dụng đất;

- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất kiểm tra hồ sơ, xác nhận hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà chưa có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai;

- Văn phòng đăng ký đất đai kiểm tra hồ sơ; xác nhận thời hạn được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 126 và Khoản 3 Điều 210 của Luật Đất đai vào Giấy chứng nhận đã cấp; chỉnh lý, cập nhật vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai và trao Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.

HỒNG HẠNH

Hà Nội chưa trình HĐND thành phố đề án thu phí ô tô vào nội đô

Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp nào?

(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp nào?

Ảnh minh họa.

Căn cứ Điều 212 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp sau đây:

Thứ nhất, nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo.

Việc xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo được hướng dẫn bởi Điều 74 Nghị định 01/2021/NĐ-CP. Theo đó, trường hợp có căn cứ xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo, tổ chức, cá nhân có quyền đề nghị Phòng Đăng ký kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và có trách nhiệm cung cấp cho Phòng Đăng ký kinh doanh một trong các văn bản cần thiết theo quy định.

Cụ thể, văn bản xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo bao gồm:

- Bản sao văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bản trả lời văn bản do cơ quan đó cấp bị giả mạo

- Bản sao văn bản trả lời của cơ quan công an về việc nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo.

Trường hợp cần xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo để làm cơ sở thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 212 Luật Doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh gửi văn bản kèm theo hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đến cơ quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 74 Nghị định 01/2021/NĐ-CP.

Các cơ quan có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về kết quả xác định theo đề nghị của Phòng Đăng ký kinh doanh trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị. Căn cứ kết luận của các cơ quan nêu trên, Phòng Đăng ký kinh doanh thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 1 Điều 75 Nghị định này nếu nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo.

Thứ hai, doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này thành lập.

Điều 17. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp

2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:

 

a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức;

c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước;

d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;

đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân;

e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng.

Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh;

g) Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Thứ ba, doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế.

Thứ tư, doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 216 của Luật Doanh nghiệp 2020 đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản.

Thứ năm, trường hợp khác theo quyết định của Tòa án, đề nghị của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của luật.

Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tại Điều 75 Nghị định 01/2021/NĐ-CP.

PHƯƠNG HOA

Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang liên quan gì vụ thuốc giả VN Pharma?

Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động cho vay tiền trên không gian mạng

(LSVN) – Nhà nước cần kịp thời ban hành chính sách, văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý các quan hệ dân sự, kinh tế trên không gian mạng, đặc biệt là quản lý hoạt động cho vay qua các app điện tử, để kiểm soát hoạt động tài chính, thu thuế và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thông qua hoạt động cho vay tài sản online đang diễn ra rất phức tạp hiện nay.

Ảnh minh họa.

Vay tiền qua app và bùng nợ

Thời gian qua, bên cạnh các tổ chức tài chính được pháp luật bảo hộ thì không gian mạng xuất hiện rất nhiều app cho vay tiền online với lãi suất rất cao.

Sự bùng nổ về app cho vay cũng góp phần hình thành một bộ phận khách hàng chuyên bùng nợ qua app số tiền từ vài trăm nghìn lên đến hàng trăm triệu đồng.

Dưới góc độ pháp lý, đánh giá về hoạt động cho vay và bùng nợ như trên, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho rằng hoạt động cho vay tiền có thể được thực hiện theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật Dân sự về giao dịch dân sự.

Dù cho vay theo hình thức nào thì bên cho vay và bên đi vay vẫn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản, trong đó có quy định về lãi suất, nghĩa vụ của bên vay, nghĩa vụ của bên cho vay.

Theo quy định của pháp luật thì bên vay tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản cùng với lãi suất thỏa thuận theo đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức mà hai bên thỏa thuận. Trường hợp bên vay tài sản chậm trả nợ, vi phạm nghĩa vụ trả nợ bao gồm cả nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi thì phải chịu lãi suất nợ quá hạn.

Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật. Trường hợp vay tiền sau đó gian dối hoặc bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với số tiền từ 4.000.000 đồng trở lên thì hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Nếu trường hợp đưa ra thông tin gian dối để vay tiền, sau đó chiếm đoạt, không có ý định trả tiền thì với số tiền chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên, người vay tiền sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.

“Vì vậy, người vay tiền cần phải giữ liên lạc với người cho vay, nghiêm cấm việc sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp, nếu vay tiền sau đó bỏ trốn, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc gian dối để không trả nợ nữa thì có thể đối mặt với những chế tài hình sự. Người vay cần phải có trách nhiệm đối với khoản nợ của mình, trong trường hợp bị đòi nợ trái pháp luật thì có thể trình báo sự việc với các cơ quan chức năng để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật”, Luật sư Cường nói.

Cho vay lãi suất cao có thể bị xử lý hình sự

Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về lãi suất vay, cụ thể lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

Luật sư Cường cũng cho biết, trường hợp cho vay quá mức lãi suất cao nhất mà nhà nước quy định thì mức lãi suất vượt quá không được pháp luật thừa nhận nếu có tranh chấp xảy ra. Trường hợp cho vay cao quá năm lần mức lãi suất cao nhất theo quy định nêu trên đồng thời thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên thì bên cho vay có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đòi nợ theo nhiều hình thức trái pháp luật

Theo dõi trên mạng xã hội, hiện nay các chủ app online đang có rất nhiều cách đòi lại khoản nợ đã cho vay như khủng bố điện thoại, tin nhắn đối với con nợ, liên hệ với người thân, bạn bè, đồng nghiệp của con nợ, đe dọa in dán hình ảnh, phát tán thông tin vay nợ trên mạng xã hội,…

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Cường phân tích rõ vay mượn tài sản là quan hệ dân sự, pháp luật nghiêm cấm việc lợi dụng các quan hệ dân sự này để đe dọa, uy hiếp tinh thần của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc xâm phạm trái pháp luật đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của người khác.

Hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần của người khác để đòi nợ là hành vi vi phạm pháp luật, tùy vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Với hành vi chửi bới, xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác để đòi nợ thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại nghị định 167/2013/NĐ-CP hoặc quy định tại Nghị định số 15/2020/NĐ-CP nếu như hành vi được diễn ra trên không gian mạng.

Trường hợp hành vi sử dụng hình ảnh, thông tin của bên cho vay để đưa ra thông tin sai sự thật nhằm vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác đến mức nghiêm trọng thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong các tội được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 nều có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm như tội “Làm nhục người khác” theo Điều 155, tội “Vu khống” theo Điều 156, tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính mạng viễn thông” theo Điều 288.

Trường hợp đòi nợ bằng cách sử dụng vũ lực, đe dọa, uy hiếp tinh thần của người vay tài sản hoặc người thân của họ để đòi nợ thì đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 Bộ luật Hình sự hoặc tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Cần kịp thời ban hành chính sách pháp luật

Vị Luật sư bày tỏ cùng với sự phát triển của xã hội trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì các hoạt động của con người trên không gian mạng ngày càng nhiều trong đó có các quan hệ dân sự, kinh tế. Hoạt động cho vay trên không gian mạng cũng ngày càng phát triển và đang thiếu hành lang pháp lý, dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột ngày càng nhiều.

Nhà nước cũng đang dần dần hoàn thiện Chính sách và pháp luật đối với các quan hệ dân sự, kinh tế trên không gian mạng. Khi hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện trên không gian mạng thì vẫn áp dụng theo các văn bản pháp luật hiện có như Luật An ninh mạng, Luật Giao dịch điện tử, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Bên cạnh đó, Luật sư Cường cũng kiến nghị nhà nước cần kịp thời ban hành chính sách, văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý các quan hệ dân sự, kinh tế trên không gian mạng, đặc biệt là quản lý hoạt động cho vay qua các app điện tử, để kiểm soát hoạt động tài chính, thu thuế và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thông qua hoạt động cho vay tài sản online đang diễn ra rất phức tạp hiện nay.

DUY ANH

Cần xử lý 'mạnh tay' các hành vi xâm phạm di sản văn hóa

Admin
LSVN