TRỰC T4

16/02/2022 03:06 |3 năm trước

(LSVN) -

Chiều

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về tổ chức phiên tòa trực tuyến

(LSVN) - Trên thế giới, Tòa án trực tuyến vẫn đang là vấn đề mới, nhận được sự quan tâm của các chuyên gia cũng như các nhà nghiên cứu, bởi lẽ, những thách thức khi tổ chức phiên tòa trực tuyến là không nhỏ. Trong nội dung bài viết, tác giả cung cấp thông tin cũng như kinh nghiệm của các quốc gia Áo, Đức và Ý về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Phương cách tương tác giữa Thẩm phán, các bên đương sự và Luật sư trong phiên tòa trực tuyến cũng cần phải thay đổi trong bối cảnh mới khác với phòng xử án truyền thống khi việc thiết kế và bố trí tạo ra sự khác biệt giữa phiên tòa trực tiếp với phiên tòa trực tuyến. Phiên tòa trực tiếp tạo ra tính nghiêm minh, không khí nghiêm túc, trong khi đó, thực tiễn tại phiên tòa trực tuyến có phần nào khác biệt.

Thực tế, pháp luật một số quốc gia đã quy định về xét xử trực tuyến từ những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000 để hiện đại hóa trình tự và thủ tục tố tụng dân sự hoặc để tổ chức phiên tòa hình sự một cách an toàn hơn. Vào năm 2009, trong khuôn khổ một chương trình có tên gọi “Xét xử trực tuyến/điện tử châu Âu”, các nước thuộc Hội đồng châu Âu đã xây dựng một chương trình xét xử trực tuyến/qua video.

1. Áo

Năm 2004, tại Áo đã áp dụng quy định cho phép nghe các bên, chuyên gia và người làm chứng trong tố tụng dân sự; bị cáo và người làm chứng trong tố tụng hình sự trình bày qua video. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến/qua video đã được quy định tại Điều 589(3) của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật quản lý Tòa án và Đạo luật phòng chống Covid. Mặc dù Hiến pháp của Áo[1] đã quy định các bên trong tranh chấp phải có mặt tại phiên tòa, các phiên tòa dân sự và hình sự phải được mở công khai, tuy nhiên hệ thống pháp luật của Áo cho phép  một số ngoại lệ cho phép các bên có thể tham gia phiên tòa trực tuyến. Đồng thời, việc sử dụng phương tiện thông tin điện tử để tương tác giữa Tòa án và các bên với tư cách là một bộ phận của trình tự tố tụng được coi là một đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp của Áo.

Điều 171 và Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự của Áo cũng quy định việc sử dụng nền tảng họp/xét xử trực tuyến như sau: “Nếu kỹ thuật cho phép, Tòa án có thể thu nhận chứng cứ thông qua phương tiện kỹ thuật để chuyển hóa chữ và hình ảnh, trừ trường hợp việc thu nhận chứng cứ trực tiếp tại tòa án là thích hợp hoặc cần thiết hơn vì lý do đặc biệt có xem xét đến nguyên tắc kinh tế mang tính thủ tục…”. Trong Bộ luật tố tụng hình sự[2], cũng có một điều khoản liên quan đến việc xét xử trực tuyến theo đó để tạo điều kiện cho việc xét xử trực tuyến, tất cả Tòa án, cơ quan công tố và nhà tù được trang bị nền tảng/hệ thống họp trực tuyến[3]. Tuy nhiên trong thực tiễn, việc sử dụng công nghệ trong các vụ xử dân sự và hình sự trong thực tiễn cũng bị hạn chế trong một số tình huống ngoại lệ.

Ngày 16/3/2020, Đạo luật chống Covid có hiệu lực đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực thi các biện pháp nhằm ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh Covid -19. Cân nhắc xu hướng sử dụng các phương tiện điện tử và các nền tảng họp trực tuyến trong các phiên xét xử trực tiếp, Đạo luật phòng chống Covid - 19 chủ yếu mở rộng việc sử dụng các công cụ hiện có để thúc đẩy chức năng quản lý hệ thống Tòa án từ xa. Nói một cách cụ thể hơn, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương án xét xử trực tuyến mà không cần phải đến Tòa [4]. Sự chấp thuận của các bên là bắt buộc, việc xét xử trực tuyến mà không có sự chấp thuận của các bên được coi là vi phạm quyền xét xử công bằng. Tại Áo, luật yêu cầu sự chấp thuận của các bên và bị can trong tố tụng dân sự và hình sự.

Theo Đạo luật này, bên cạnh một số biện pháp khác đã điều chỉnh trình tự và thủ tục của Tòa án trong các vụ án dân sự để ứng phó với dịch bệnh đảm bảo quyền được xét xử kịp thời của các bên đương sự. Luật ứng phó đại dịch Covid[5] cho phép, trong một khoảng thời gian giới hạn, các phiên xét xử được tổ chức trực tuyến với sự đồng ý của các bên trong tố tụng dân sự. Luật cũng cho phép tổ chức các phiên xét xử trực tuyến trong các vụ án hình sự, đặc biệt là liên quan đến việc giam giữ các nghi phạm hoặc bị can. Tuy nhiên, các phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn chỉ có thể được tổ chức trực tuyến trong những trường hợp đặc biệt. Trong tố tụng hành chính, luật chỉ quy định rằng các bên “có thể” được xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, trong quyết định ngày 08/10/2020, Tòa án Hiến pháp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử trực tuyến - để bảo vệ quyền của họ đối với một phiên tòa công bằng.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Áo sử dụng là Zoom (các quốc gia như: Bang Michigan của Hoa Kỳ, Tây Ban Nha (tòa án Madrid), Vương quốc Anh, Ba Lan, Thụy Sĩ (tòa án thương mại Zurich), Singapore, Tòa án tối cao của Victoria, New Zealand cũng sử dụng nền tảng công nghệ này). Việc sử dụng công nghệ mới phụ thuộc vào sự hợp tác của các Thẩm phán và tình hình tại từng Tòa án. Quy mô của các phòng xử án - trong các phòng lớn, vẫn có thể thực hiện các phiên xét xử trực trực tuyến với các thiết bị kỹ thuật có sẵn. Các Tòa án nơi các Thẩm phán đã làm việc với các hồ sơ điện tử thường có thiết bị kỹ thuật tốt hơn. Tuy nhiên, ở một số quốc gia châu Âu, Zoom và các hệ thống thuộc sở hữu tư nhân khác bị coi là không đáng tin cậy vì lý do bảo vệ dữ liệu, mặc dù chúng ổn định và thân thiện với người dùng.

2. Đức

Đầu những năm 2000, việc xét xử qua video đã được đưa ra áp dụng tại Đức. Các phiên xét xử video tại các Tòa án đã được giới thiệu vào năm 1998 để bảo vệ nhân chứng trong các phiên tòa hình sự. Điều 128a của Bộ luật Tố tụng dân sự đã tạo ra cơ sở pháp lý, các quy định tương tự đã được quy định trong các Luật Tố tụng Hành chính và Gia đình. Tuy nhiên, trong thủ tục tố tụng hình sự, chỉ có nhân chứng mới có thể tham gia trực tuyến từ xa, một cách tiếp cận khá khác so với các quy định ở các nước châu Âu khác. Mặc dù đã có cơ sở pháp lý, nhưng các cuộc xét xử trực tuyến không được sử dụng nhiều trước đại dịch Covid ở Đức, tuy nhiên, quốc gia này có một số kinh nghiệm về các phiên xét xử trực tuyến tại các Tòa án thuế khi các bên và Tòa án sử dụng nền tảng “Máy chủ Truyền thông Video của Cisco (VCS)”.

Ở Đức không yêu cầu sự chấp thuận về mặt pháp lý (tương tự như ở Ireland, San Marino và Tây Ban Nha), Tòa án có thể quyết định tổ chức một phiên xét xử từ xa theo đơn của một bên hoặc thậm chí chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế, một cuộc xét xử trực tuyến không được tiến hành trái với mong muốn của các bên. Trong tố tụng hình sự, các phiên xét xử trực tuyến được giới hạn trong việc nghe các nhân chứng trình bày. Ngoài ra, thường có những quy tắc đặc biệt trong tố tụng hình sự và mong muốn của các bên được cân nhắc.

Nền tảng công nghệ chính được Tòa án ở Đức sử dụng là CISCO Webex.  Tại Diễn đàn Thường trực Quốc tế về các Tòa án Thương mại đã đưa ra một bản ghi nhớ vào tháng 5/2020 để hỗ trợ các Tòa án trong việc lựa chọn và sử dụng các nền tảng kỹ thuật. Trong việc chọn một nền tảng cho các cuộc xét xử video, bảo mật dữ liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, ở Đức các hệ thống này được sử dụng trên các máy chủ riêng của Tòa án (tại cơ sở). Các Tòa án đã tuân thủ cách hiểu truyền thống về “phiên xét xử công khai” liên quan đến phiên xét xử trực tuyến. Các Thẩm phán chỉ có thể tiến hành các phiên xét xử trực tuyến từ phòng xử án của họ, phòng xử án phải được công khai. Về mặt kỹ thuật, có thể dễ dàng phát trực tiếp các phiên xét xử và do đó cho phép một số lượng lớn công dân quan tâm đến xem. Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu.

3. Ý

Ở Ý, sự nguy hiểm của các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển và sử dụng các phiên xử trực tuyến qua video tại các Tòa án. Các quy định pháp luật khác nhau cho phép xét xử trực tuyến qua video đã được sử dụng trong cơ quan tư pháp Ý trong hơn 20 năm. Bộ Tư pháp Ý cung cấp các hệ thống nghe nhìn an toàn phục vụ cho hoạt động của Tòa án.

Kể từ năm 1992, Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự Ý quy định “cộng tác viên”, các đặc vụ chìm và những người khác có thể phải đối mặt với nguy cơ gây áp lực hoặc nguy hiểm cho sự an toàn của họ và gia đình, do vậy họ có thể làm chứng thông qua công nghệ trực tuyến. Trong trường hợp này, Thẩm phán sau khi cân nhắc mọi mặt có thể quyết định xét xử video mà không cần sự đồng ý của họ. Tại nơi nhân chứng có mặt, một cán bộ sẽ được bố trí để đảm bảo tính thường xuyên của việc kiểm tra chéo.

Tòa án Hiến pháp được kêu gọi để ra phán quyết về tính hợp pháp của phương pháp thẩm tra chéo (từ xa) này, cho rằng quy định của luật phù hợp với Hiến pháp và các nguyên tắc của thủ tục tố tụng[6]. Cuộc chiến chống tội phạm có tổ chức trong các phiên tòa xét xử Mafia những năm 1990 không chỉ cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ nhân chứng mà còn cho thấy lợi thế của việc không chuyển tội phạm nguy hiểm từ nhà tù an toàn đến phòng xử án. Từ năm 1998, Luật tố tụng hình sự của Ý đã quy định rằng trong các phiên tòa xét xử tội phạm có tổ chức hoặc khủng bố, các bị cáo bị giam trong tù được tham gia bằng hội nghị truyền hình[7]. Hội nghị truyền hình được thực hiện bằng cách kích hoạt đường truyền truyền hình giữa nơi giam giữ bị can và phòng xử án. Hơn nữa, một bị can bị giam giữ ở nước ngoài không thể được chuyển đến Ý cũng có thể tham dự phiên xét xử hình sự thông qua hội nghị truyền hình [8].

Cơ sở pháp lý cho các cuộc xét xử trực tuyến đã được đưa ra trước đại dịch, luật đã được sửa đổi để thích ứng trong thời gian đại dịch Covid-19. Các quy tắc tố tụng được áp dụng sau trường hợp khẩn cấp về y tế trong đại dịch Covid-19 đã mở rộng khả năng sử dụng xét xử trực tuyến trong các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, Luật 27/2020 quy định rằng từ ngày 09/3/2020 đến ngày 30/6/2020 (thời hạn sau đó kéo dài đến ngày 31/7/2020), các phiên xét xử hình sự không có sự tham gia của nhân chứng mà không phải là cảnh sát tư pháp thì có thể được tổ chức thông qua các kết nối từ xa được do Bộ Tư pháp quyết định.

Nếu không có sự đồng ý của người bị buộc tội, những quy định này không áp dụng đối với các phiên xét xử chung thẩm và đối với những phiên tòa mà nhân chứng, các bên, nhà tư vấn và chuyên gia cần được thẩm tra lời khai. Trong đợt đại dịch thứ hai, các quy định tương tự đã được thông qua vào cuối tháng 10/2020 có hiệu lực cho đến ngày 31/1/2021. Nếu cần thiết, các quy tắc này có thể được gia hạn thêm. Tại Tòa Giám đốc thẩm Tối cao hầu hết các phiên tòa xét xử, dân sự và hình sự, đều được tổ chức trực tuyến. Các vụ án dân sự vẫn được xét xử trực tiếp, nhưng các phiên xét xử công khai về hình sự thường được tổ chức trực tuyến trên cơ sở kháng cáo được nộp và kết tội bằng văn bản của công tố viên, trừ khi Bộ trưởng Tư pháp hoặc người bào chữa yêu cầu một phiên xét xử trực tiếp.

Kết luận

Cho đến nay, những trải nghiệm tích cực đã được báo cáo từ các quốc gia khác nhau, hều hết đều đồng ý rằng các cuộc xét xử trực tuyến đã tăng lên đáng kể vì đại dịch. Các Thẩm phán đồng tình rằng sự sẵn có của thiết bị kỹ thuật phù hợp và kết nối internet tốt là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các phiên xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngoài các vấn đề kỹ thuật, các mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng của phiên xét xử và các rủi ro có thể xảy ra đối với quyền xét xử công bằng, đặc biệt là quyền bào chữa cũng được đề cập. Một phiên xét xử nên cung cấp một không gian được kiểm soát bởi Thẩm phán để bằng chứng có thể được thu thập và đánh giá một cách thích hợp. Trong các phiên xét xử trực tuyến, các Thẩm phán có ít quyền kiểm soát hơn đối với giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các bên và nhân chứng. Các Thẩm phán coi các phiên xét xử từ xa là cần thiết trong thời kỳ đại dịch nhưng không thích hợp hơn các phiên xét xử trực tiếp.

Trong một cuộc khảo sát các đại biểu tham dự Hội nghị tư pháp trực tuyến do Bộ trưởng trưởng Tư pháp Cộng hòa liên bang Đức tổ chức ngày 08/12/2020, 70% đại biểu cho rằng trong vòng 3 năm tới việc xét xử trực tuyến qua video sẽ phổ biến toàn châu Âu [9]. Bên cạnh đó, những năm gần đây, một số quốc gia đã hướng tới phương cách “Xét xử trực tuyến/qua video” không chỉ đơn giản là nộp đơn kiện/hồ sơ vụ án qua phương tiện điện tử mà còn sửa đổi luật của mình để áp dụng cách xét xử trực tuyến. Tuy nhiên, ngay từ khi đưa ra áp dụng quy định này, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và giới Luật sư…đã nêu vấn đề như quyền xét xử bình đẳng và quyền tiếp cận công nghệ.

Ở một số quốc gia, các phiên xét xử trực tuyến được coi là một công cụ quan trọng cho ngành tư pháp không chỉ trong đại dịch mà còn trong tương lai. Trong chặng đường phía trước, cần có nhiều nghiên cứu và thảo luận để phát triển các quy tắc và hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển các phiên xét xử video thành một nơi - mặc dù không phải là một nơi thực tế - nơi công lý có thể được thực hiện.

[1] Điều 90 của Hiến pháp Áo

[2] Điều 165 Luật tố tụng hình sự của Áo

[3] https://edition.cnn.com/2021/02/09us/cat/filter-lawyer-zoom-court

[4] Điều 21 khoản 3 của Đạo luật phòng chống Covid

[5] Điều 21 Luật ứng phó đại dịch covid 19

[6] Bản án No 342 22/7/1999

[7] Điều 146 của Bộ luật tố tụng hình sự có sửa đổi bổ sung 11/1998 và điều 134 của Bộ luật tố tụng hình sự ban hành tháng 4/2011

[8] Điều 205 về thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

[9] https:www.iacajournal.org/article

Luật gia THANH TÙNG

Tạp chí Tòa án nhân dân

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

2. Trầm cảm sau sinh sát hại con nhỏ: Cần sớm có giải pháp khắc phục

(LSVN) - Bất cứ hành vi nào sát hại trẻ em cũng là đáng trách, đáng lên án, có thể còn gọi đó là tội ác. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể xử lý bằng chế tài hình sự và chế tài hình sự cũng không phải là giải pháp tích cực đối với những vụ việc mẹ sát hại con đẻ vì trầm cảm sau sinh.

Ảnh minh họa.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mọi công dân, hành vi tước đoạt tính mạng trái pháp luật của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, chế tài hình sự chỉ có thể áp dụng đối với những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác) mà nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi. Còn đối với những trường hợp thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội như sát hại người khác nhưng không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi thì không được coi là tội phạm. Trong trường hợp người mắc bệnh tâm thần hoặc người khác bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi dẫn đến thực hiện hành vi giết người thì trường hợp này được loại trừ trách nhiệm hình sự, không bị xử lý về tội giết người nhưng sẽ bị bắt buộc chữa bệnh.

Còn trường hợp thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác sau đó mới mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức thì sẽ bị bắt buộc chữa bệnh, sau khi khỏi bệnh sẽ xử lý hình sự. Người thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật do sử dụng ma túy, sử dụng rượu bia hoặc các chất kích thích khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Giết người". Đây là vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm mà bộ luật hình sự đã quy định.

Cụ thể Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

"Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.".

Trầm cảm sau sinh là một hiện tượng bệnh lý ở phụ nữ sau khi sinh đẻ. Dưới góc độ y học và tâm lý học thì "trầm cảm" là chứng bệnh về tâm thần học do sự rối loạn hoạt động của não bộ gây ra. Các biến chứng bất thường trong tâm lý đã tạo ra nhiều biến đổi bất thường trong suy nghĩ, hành vi và biểu hiện.

Người bị trầm cảm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ độ tuổi nào. Nguyên nhân của trầm cảm có thể do áp lực cuộc sống, do thay đổi nội tiết tố, những biến đổi cơ thể trong thai kỳ và sau khi sinh, cũng có thể do môi trường, cuộc sống hoặc do bệnh lý gây ra. Đặc biệt là phụ nữ trẻ, sau khi sinh con mà chịu nhiều áp lực trong cuộc sống, không được chia sẻ, tâm lý không thoải mái thì cũng rất dễ bị trầm cảm sau sinh. Mức độ nhẹ thì có thể hay quên, đãng trí, tâm tính thay đổi, dễ cáu gắt, dễ tổn thương. Mức độ nặng thì có thể hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi dẫn đến tự sát, sát hại con, hủy hoại tài sản hoặc gây tổn thương cơ thể người khác,...

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học y khoa thì trầm cảm chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn 1, người bệnh sẽ cảm thấy buồn chán, buồn chán không lý do; Bản thân không muốn làm gì; Cảm thấy cạn kiệt hết năng lượng; Bỏ hết những đam mê, sở thích; Bản thân không tự nhận thức được là mình có bệnh; Dần tách biệt với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, xã hội và thế giới xung quanh; Muốn xa lánh mọi thứ và thích ở 1 mình.

Nếu có những biểu hiện nêu trên thì người bệnh cần phải đi khám bác sĩ, có những liệu pháp điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ, cần phải thư giản, cần được quan tâm chia sẻ, giúp đỡ nhiều hơn để tâm lý, sức khỏe dần dần hồi phục.

Trường hợp những người có biểu hiện bệnh lý ở giai đoạn 1 mà không được phát hiện, chữa trị kịp thời, vẫn duy trì cuộc sống, lối sống như cũ thì tình hình có thể diễn biến phức tạp hơn, sẽ chuyển sang giai đoạn hai.

Giai đoạn 2, người bệnh sẽ cảm thấy sợ hãi, uể oải, thiếu sức sống; Muốn buông xuôi mọi thứ; Không muốn suy nghĩ hay làm việc; Sợ người lạ, đám đông, sợ cả những người thân thiết; Xuất hiện những nỗi sợ hãi chưa xuất hiện như: sợ bóng đêm, sợ sâu, sợ ánh sáng; Xuất hiện ảo tưởng; Cau có, nổi giận vô cớ, cáu giận; Khó ngủ, mất ngủ, ngủ không sâu giấc; Cảm thấy không ai hiểu và không có ai giúp được mình; Mất niềm tin với người thân, bạn bè, đồng nghiệp, xã hội xung quanh; Không dám đối mặt với hiện tại; Biết bản thân có bệnh nhưng không tin tưởng ai.

Với những biểu hiện bệnh lý như thế này thì cần phải nhập viện điều trị, cần phải sinh hoạt theo chế độ của bác sĩ đồng thời có sự can thiệp bởi các loại thuốc và các trị liệu về tâm thần. Trường hợp không được can thiệp, điều trị kịp thời thì tình trạng bệnh sẽ tiến triển nặng hơn lúc đó sẽ chuyển sang giai đoạn ba.

Giai đoạn 3, người bệnh luôn cảm thấy tuyệt vọng; Mất hết niềm tin vào bản thân, con người, cuộc sống, xã hội; Cảm thấy bản thân vô dụng. Có xu hướng làm hại bản thân (tự sát); Xuất hiện hoang tưởng, cảm thấy không có lối thoát; Không muốn nghĩ đến quá khứ, tương lai. Tiêu cực, cảm thấy mặc cảm, tội lỗi và nghĩ đến cái chết; Ngủ li bì hoặc khó ngủ hơn bình thường, mất ngủ kéo dài; Cảm giác ám ảnh bởi bệnh tật; Thường nghĩ đến cái chết 5-7 lần/ tuần.

Luật sư Đăng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp.

Những trường hợp người mẹ sát hại con sau sinh thường là người bị trầm cảm ở giai đoạn ba. Mức độ nhận thức của người bệnh không ổn định, có lúc nhận thức lơ mơ, có khi không nhận thức được hành vi, suy nghĩ của mình. Nếu thời điểm không nhận thức được hành vi của mình thì họ có thể thực hiện hành vi tự sát hoặc sát hại con mình, đập phá tài sản, đốt nhà hoặc có những hành vi gây tổn thương cho những người xung quanh...

Thông thường thì phụ nữ sinh con xong sẽ rất yêu thương con mình, luôn có những phản xạ cần thiết để bảo vệ và chăm sóc đứa trẻ. Có thể nói rằng không ai yêu thương trẻ em hơn người đã sinh ra chúng. Không người phụ nữ nào bình thường mà lại ghét bỏ đứa con mới sinh của mình. Bởi vậy, trường hợp người phụ nữ không có mâu thuẫn gì với chồng, với gia đình nhà chồng mà thầy ra tay sát hại con mình thì thường là người bị bệnh trầm cảm, mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.

Bởi vậy, khi xảy ra những vụ việc mẹ sát hại con đẻ là trẻ sơ sinh như vậy thì Cơ quan điều tra sẽ tính đến chuyện có thể xảy ra trường hợp phụ nữ trầm cảm sau sinh thực hiện hành vi giết người. Nếu có những biểu hiện bất thường thì Cơ quan điều tra có thể trưng cầu giám định tâm thần để xác định khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội.

Trường hợp kết quả giám định tâm thần cho thấy tại thời điểm thực hiện hành vi giết hại đứa trẻ mà người phụ nữ đó bị mắc bệnh tâm thần (do trầm cảm sau sinh) đến mức mất khả năng nhận thức thì thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra sẽ không xử lý hình sự đối với người này mà sẽ bắt buộc chữa bệnh theo thủ tục hành chính.

Người trầm cảm sau sinh không chỉ sát hại trẻ em mà còn có thể tự sát, đốt nhà, đập phá tài sản và sát hại những người trong nhà. Đây là một dạng bệnh lý nguy hiểm và ngày càng phổ biến do nhiều yếu tố về thay đổi tâm sinh lý, áp lực đời sống, áp lực công việc và những mâu thuẫn trong gia đình... Vì vậy, nếu không phát hiện, điều trị, ngăn chặn kịp thời thì hậu quả mà người phụ nữ trầm cảm sau sinh gây ra đối với bản thân và xã hội sẽ rất nghiêm trọng.

Qua nghiên cứu về tâm lý tội phạm và các giải pháp phòng ngừa tội phạm thì chúng tôi thấy rằng đa phần những người phụ nữ bị trầm cảm sau sinh là phụ nữ trẻ, mới sinh đứa con đầu lòng hoặc đứa con thứ hai, cuộc sống khó khăn, bế tắc, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, ít có sự sẻ chia. Khi có biểu hiện bệnh lý, đặc biệt là mất ngủ nhiều ngày, chán ăn, tâm lý chán nản, hay cáu gắt, hay nổi nóng thì nhiều người chủ quan, không đi thăm khám, điều trị, thậm chí mâu thuẫn trong gia đình ngày càng căng thẳng khiến người bệnh ngày càng trầm trọng hơn. Người bệnh có trạng thái tâm lý bất thường, lúc tỉnh, lúc mê, khó nhận biết nên nếu gia đình không có kinh nghiệm, không quan tâm thì khó phát hiện để điều trị, ngăn chặn kịp thời. Một đặc điểm cũng cần lưu ý là người tâm thần thường không bao giờ thừa nhận mình mắc bệnh, việc thăm khám, điều trị với những người có biểu hiện tâm thần phải hết sức tế nhị, nhẹ nhàng, theo hướng dẫn chỉ dẫn của bác sĩ thì mới hiệu quả.

Những vụ việc người mẹ trầm cảm sau sinh sát hại con mình rồi tự sát xảy ra ngày càng nhiều cho thấy đó là vấn đề xã hội cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng và có những giải pháp để kiểm soát tình trạng này, giảm bớt những vụ việc đau lòng xảy ra trong đời sống xã hội trước đi tính mạng của những đứa trẻ vô tội còn quá nhỏ bé.

Để giảm thiểu những vụ việc phụ nữ trầm cảm sau sinh tự sát, sát hại con mình hoặc gây tổn hại đến những người xung quanh thì cần phải phổ biến kiến thức cho các cặp vợ chồng trẻ để họ dễ dàng nhận biết biểu hiện của người trầm cảm sau sinh. Khi phát hiện ra trường hợp trầm cảm sau sinh thì cần phải có những can thiệp, hỗ trợ kịp thời về mặt tâm lý và y khoa. Ngoài ra, những người chồng, gia đình nhà chồng, những người chung sống với phụ nữ sau sinh cần phải có những quan tâm, chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ người phụ nữ sau sinh, kịp thời động viên và hạn chế đến mức thấp nhất những áp lực về tinh thần đối với họ để giảm bớt căng thẳng về thần kinh, những lo lắng không đáng có trong đời sống.

Phụ nữ trầm cảm sau sinh thường là do thay đổi tâm sinh lý lúc sinh con, do lo lắng về việc nuôi dạy, chăm sóc trẻ nhỏ, thiếu kiến thức kỹ năng cần thiết trong việc chăm sóc trẻ em phải bị áp lực về kinh tế, về các mối quan hệ trong cuộc sống mới sau kết hôn nên nguy cơ trầm cảm sau sinh ngày càng cao. Cuộc sống hiện đại, áp lực về đời sống kinh tế ngày càng cao nên nguy cơ phụ nữ bị trầm cảm sau sinh càng nhiều. Thêm vào đó là việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, đặc biệt là kỹ năng trong đời sống hôn nhân chưa thực sự có hiệu quả dẫn đến nhiều trường hợp phụ nữ sau sinh bị động, bị áp lực rất nhiều trong đời sống làm ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe và dễ dẫn đến trầm cảm sau sinh.

Dưới góc độ pháp lý thì nếu phụ nữ do bực tức mà sát hại con mình thì sẽ bị xử lý hình sự về tội "Giết người". Còn trường hợp sát hại con mình do bị bệnh tâm thần, vì trầm cảm sau sinh dẫn đến mất khả năng nhận thức thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng sẽ bị bắt buộc chữa bệnh.

Dù là xử lý hình sự hay bắt buộc chữa bệnh thì hậu quả trẻ em bị sát hại đã xảy ra rồi mà nguyên nhân trước đó là một quá trình diễn biến đời sống tâm lý bất thường. Bởi vậy để giảm thiểu nhữngVụ việc đau lòng như vậy, để bảo vệ tính mạng của trẻ em cũng như tính mạng sức khỏe của những người xung quanh thì cần phải có những kiến thức, hiểu biết cần thiết về vấn đề này phải cần trang bị những kỹ năng cho các bạn trẻ để kịp thời ứng phó, xử lý đối với các tình huống có dấu hiệu trầm cảm phát sinh.

Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp

Cần xử lý nghiêm những vi phạm trong đấu giá đất

3. Thủ tục áp giải người vi phạm theo quy định mới nhất

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Trong đó quy định cụ thể về thủ tục áp giải người vi phạm.

Cụ thể, người vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền mà không phải do trở ngại khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng thì bị áp giải trong các trường hợp sau đây:

- Bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính;

- Đưa vào hoặc đưa trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 124 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Những người sau đây đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính:

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ của lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, cơ quan thuế, Quản lý thị trường, Cơ quan thanh tra, Thi hành án dân sự, Kiểm lâm, Thuế, Kiểm ngư, Quản lý thị trường, Thanh tra.

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Về thủ tục áp giải, theo Điều 32 Nghị định, trước khi áp giải người vi phạm, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải giải thích cho người bị áp giải về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình bị áp giải theo quy định của pháp luật, giải đáp thắc mắc của người bị áp giải.

Trong khi áp giải, phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải và cho người bị áp giải. Việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi áp dụng biện pháp áp giải phải bảo đảm đúng nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định tại Nghị định này.

Trường hợp người bị áp giải có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ, người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải báo cáo ngay người có thẩm quyền để ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với người đó.

Người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh giác, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không được tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải trong khi đang tiến hành áp giải.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.

DUY ANH

Quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải

4. Quy định về xóa dữ liệu hộ tịch điện tử

(LSVN) – Dữ liệu hộ tịch bị xóa không còn giá trị pháp lý nhưng vẫn được lưu vết trên bản ghi dữ liệu hộ tịch điện tử của cá nhân, được khai thác, sử dụng khi cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch.

Vừa qua, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 01/2022/TT-BTP ngày 04/01/2022 về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến. Theo đó, tại Điều 13 Thông tư quy định cụ thể về xóa dữ liệu hộ tịch điện tử.

Cụ thể, trường hợp nhận được bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý giấy tờ hộ tịch, nội dung đăng ký trong Sổ hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch đã thực hiện việc đăng ký hộ tịch có trách nhiệm lập đề nghị xóa dữ liệu hộ tịch điện tử tương ứng trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử thông qua các chức năng, tiện ích được cung cấp trên Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử dùng chung.

Đề nghị xóa dữ liệu hộ tịch điện tử gồm các thông tin sau đây:

- Thông tin về loại việc hộ tịch đã đăng ký, cơ quan đăng ký, số, ngày, tháng, năm đăng ký, thông tin cụ thể cần xóa;

- Lý do, căn cứ đề nghị xóa;

- Bản sao điện tử của bản án, quyết định về việc thu hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 Cơ quan được giao trực tiếp quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm xem xét, phê duyệt các đề nghị xóa dữ liệu hộ tịch điện tử hợp lệ trên Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử dùng chung.

Dữ liệu hộ tịch bị xóa không còn giá trị pháp lý nhưng vẫn được lưu vết trên bản ghi dữ liệu hộ tịch điện tử của cá nhân, được khai thác, sử dụng khi cấp văn bản xác nhận thông tin hộ tịch.

Cơ quan được giao trực tiếp quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử thuộc Bộ Tư pháp có thẩm quyền cho phép khôi phục lại dữ liệu hộ tịch điện tử trước khi điều chỉnh, xóa bỏ nếu có văn bản, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép khôi phục lại.

MAI HUỆ

Vay tín chấp ngân hàng không có khả năng chi trả có bị khởi tố hình sự không?

5. Sớm hoàn thiện hồ sơ sửa đổi Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản

(LSVN) - Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Bộ Xây dựng chú trọng và đang thực hiện. Theo Nghị quyết Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 01, Bộ Xây dựng sẽ tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng của cả 2 luật này theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư, tháng 10/2022.

Ảnh minh họa.

Trước đó, tại Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 08/02/2022 về việc đôn đốc, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp cùng các cơ quan, địa phương khẩn trương hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Nhà ở (sửa đổi) và Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 01, gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, cập nhật Tờ trình của Chính phủ về điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2022.

Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, thời gian tới, Bộ Xây dựng xác định tập trung cho việc hoàn thiện cơ chế chính sách về phát triển nhà ở xã hội để tháo gỡ ngay các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Nhà ở năm 2014, Luật Kinh doanh Bất động sản 2014; trong đó, đã kiến nghị sửa đổi chính sách về nhà ở xã hội, nhà ở công nhân.

Theo đó, các vướng mắc sẽ được tháo gỡ theo hướng như: điều chỉnh các quy định về ưu đãi cho chủ đầu tư phát triển nhà ở xã hội, đảm bảo chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội được hưởng ưu đãi thực chất. Việc bổ sung quy định về tài chính phát triển nhà ở xã hội cũng theo hướng quản lý chặt chẽ, đúng quy định pháp luật và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực từ quỹ đất 20% dành cho nhà ở xã hội trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại tại các vị trí không phù hợp để đưa vào quỹ phát triển nhà ở xã hội; bổ sung quy định trách nhiệm cụ thể của các địa phương trong việc thực hiện quy hoạch, bồi thường giải phóng mặt bằng và bố trí đủ quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội, tổ chức lựa chọn đơn vị đủ năng lực để thực hiện.

Đáng chú ý, sẽ tách nhóm đối tượng người lao động, công nhân khu công nghiệp để có chính sách riêng và bổ sung các quy định về quỹ đất để phát triển nhà lưu trú cho công nhân trong phạm vi quy hoạch khu công nghiệp cũng như trách nhiệm của chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp trong việc đầu tư nhà lưu trú cho công nhân khu công nghiệp đó thuê. Cùng đó là cải cách, rút gọn thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng cũng như trong quy trình mua – bán, xác nhận đối tượng thụ hưởng...

Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ này, Bộ Xây dựng sẽ chủ động tăng cường hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc áp dụng pháp luật về phát triển nhà ở xã hội tại các địa phương. Trọng tâm là kiểm tra, đốn đốc các địa phương xây dựng Chương trình, Kế hoạch phát triển nhà ở tại địa phương theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Đồng thời, quyết liệt triển khai gói hỗ trợ tín dụng về nhà ở xã hội trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ nhất vừa qua.

Ngoài ra, Bộ Xây dựng cũng sẽ tổ chức lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân trong quá trình soạn thảo luật bảo đảm tính thực tiễn, khả thi, tạo sự đồng thuận cao, làm tốt công tác truyền thông trước, trong và sau khi trình các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

TIẾN HƯNG

Bình luận những điểm mới của Nghị định 02/2022/NĐ-CP

6. Xem xét dự thảo Nghị quyết sửa đổi Quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(LSVN) - Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 8, chiều 16/2/2022, tại Nhà Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội họp xem xét dự thảo Nghị quyết sửa đổi Quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

 

 

MAI HUỆ

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật

SÁNG

1. Cần hoàn thiện một số quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

(LSVN) - Trước tình hình đấu tranh phòng chống tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, việc định tội danh chính xác đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc định tội danh đúng sẽ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và áp dụng hình phạt phát huy được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.

Qua thực tiễn áp dụng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tác giả thấy rằng đây là tội có tính truyền thống nên các dấu hiệu pháp lý ít thay đổi, các yếu tố cấu thành tội phạm dễ gây nhầm lẫn với các tội danh khác. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù bản chất pháp lý của hành vi không thay đổi nhưng các hình thức và thủ đoạn đã có sự thay đổi nên cần phải có sự nghiên cứu điều chỉnh lại các dấu hiệu pháp lý để đáp ứng với tình hình tội phạm mới. 

1. Một số điểm chưa phù hợp về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” 

Thứ nhất, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm của giá trị tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự là 2 triệu đồng, còn tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm là 4 triệu đồng. Trên thực tế có một số trường hợp khi điều tra ban đầu thường rất khó xác định tội danh là lừa đảo hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bởi do định lượng cấu thành cơ bản giữa hai tội không bằng nhau, nên có nhiều trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 4 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính …, nhưng cơ quan điều tra không thể khởi tố ngay được, mà phải tốn nhiều thời gian để chứng minh ý thức của người chiếm đoạt tài sản có trước hay sau khi đã nhận tài sản. 

Trong thực tế, người lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng đưa ra lý do rằng: sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt, để trốn tránh trách nhiệm hình sự. Bởi vì, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 4 triệu đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” dẫn đến bỏ lọt tội phạm, vì không chứng minh được ý thức chiếm đoạt có trước khi nhận tài sản. 

Do vậy, khi xử lý đối với các trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 4 triệu đồng rất dễ xảy ra oan, sai.

Thứ hai, về tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” được quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Theo tác giả là không cần thiết, vì bản thân người phạm tội khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, việc họ sử dụng thủ đoạn gian dối cũng đã thể hiện sự xảo quyệt, họ lợi dụng lòng tin của người có tài sản, làm giả giấy tờ,… một cách tinh vi khiến cho người bị hại tin tưởng giao tài sản, sau đó chiếm đoạt.

Trong mối quan hệ tương quan giữa tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc thiết bị điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” thấy rằng, bản chất của tội phạm này cũng là hành vi lừa đảo, có thủ đoạn gian dối, việc người phạm tội ứng dụng các tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật để thực hiện tội phạm thì rõ ràng mức độ tinh vi, xảo quyệt của tội phạm này cao hơn. 

Như vậy, nếu như người phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác”, thủ đoạn gian dối được đánh giá là “xảo quyệt”, người này bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; nhưng nếu họ sử dụng thiết bị công nghệ, mạng máy tính, mạng viễn thông để lừa đảo thì chỉ bị truy tố ở khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt thấp hơn, điều này là không hợp lý.  

Thứ ba, hoàn thiện các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với một số hình thức mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như: Lừa đảo qua mạng internet, lừa đảo thông qua hình thức bán hàng đa cấp: Hình thức kinh doanh bán hàng đa cấp rất phổ biến trên thế giới và trong một vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam. Nhưng so với các hình thức kinh doanh khác thì bán hàng đa cấp khá phức tạp và đem lại nhiều rủi ro cho các thành viên tham gia. 

Nhiều quan điểm cho rằng hình thức bán hàng đa cấp chính là một hình thức lừa đảo, đây là hình thức rất khó xác định người bị hại, do đó vấn đề xác định giá trị tài sản bị lừa đảo chiếm đoạt là bao nhiêu rất khó trong khi đó giá trị tài sản là căn cứ để định tội danh nên việc điều tra, truy tố, xét xử đối với tội này rất khó khăn. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức làm hồ sơ khống chiếm tiền hoàn thuế giá trị gia tăng: Trong trường hợp này, người phạm tội lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước đã lập hồ sơ giả mạo để được hoàn thuế giá trị gia tăng nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. 

Thứ tư, hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự có liên quan đảm bảo cho việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đúng người, đúng tội như Điều 198 Bộ luật Hình sự (Tội “Lừa dối khách hàng”), Điều 192 Bộ luật Hình sự (Tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”), … 

Như đã phân tích ở trên, dấu hiệu đặc trưng nổi bật của tội phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng những hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng như hành vi gian dối trong cân, đo, đong, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng… để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự; hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 192, Điều 193, Điều 195 Bộ luật Hình sự; cũng như ở tội “Đánh bạc” quy định ở Điều 321 Bộ luật Hình sự, tuy không quy định có "thủ đoạn gian dối" nhưng có thể họ sẽ sử dụng những mưu mẹo, gian dối để giành phần thắng nhưng những mưu mẹo đó phải phát sinh trong quá trình chơi hoặc cũng có thể có sự chuẩn bị từ trước nhưng sự chuẩn bị đó không có ý nghĩa quyết định được việc thắng thua mà nó chỉ làm ảnh hưởng phần nào đến kết quả đánh bạc; hoặc việc xác định hành vi nào của người phạm tội bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và hành vi nào bị xử lý tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn”, bởi lẽ ở cả hai tội phạm này chúng ta đều thấy có sự tham gia của các đối tượng là người có chức vụ quyền hạn và họ đã dựa vào chức vụ, quyền hạn đó kết hợp với yếu tố “gian dối” để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mục đích mà người phạm tội hướng đến trong trường hợp này là giống nhau. Hơn nữa, khi họ đã có hành vi phạm tội thì việc chúng ta xử lý họ ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn về cơ bản vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. 

2. Đề xuất hướng hoàn thiện

Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành pháp luật cần rà soát lại toàn bộ các quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, qua đó có những chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể đối với các vấn đề liên quan theo hướng sau:

Theo tác giả có thể sửa đổi, bổ sung Điều 174 Bộ luật Hình sự như sau: 

Thứ nhất, Đề nghị nâng mức khởi điểm của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” lên cùng mức 4.000.000 đồng như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 

Thứ hai, không quy định tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Thứ ba, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế về thuế, cần coi thủ đoạn làm giả hồ sơ không xuất khẩu để hoàn thuế là thủ đoạn xảo quyệt, đồng thời cần tăng nặng hình phạt đối với các đối tượng làm trong các cơ quan thuế, hải quan, tiếp tay cho các cá nhân trong việc hợp thức hóa hồ sơ để chiếm đoạt tiền thuế. 

Thứ tư, cần phải có sự giải thích rõ ràng trong các văn bản pháp luật để việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong quá trình định tội danh, tránh sai sót trong việc xét xử.

Tóm lại, việc chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành và ban hành các văn bản hướng dẫn đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án này, từ đó đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm./.

ĐINH MINH LƯỢNG, ĐẶNG THẾ THANH

Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5

Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình

2. Hành vi bàn giao nhà chưa hoàn thành nghiệm thu sẽ bị xử lý như thế nào?

(LSVN) - Tôi là chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản. Gần đây có người muốn mua nhà thuộc dự án của tôi, tuy nhiên hiện nay nhà đó vẫn chưa hoàn thành nghiệm thu. Vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì hành vi bàn giao nhà chưa hoàn thành nghiệm thu sẽ bị xử lý như thế nào? Bạn đọc P.T. hỏi.

Ảnh minh họa.

Căn cứ điểm d khoản 4 Điều 58 Nghị định 16/2022/NĐ-CP quy định rõ phạt tiền từ 800 triệu đồng đến 1 tỉ đồng đối với chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản có hành vi bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng khi chưa hoàn thành đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng và các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt, chưa bảo đảm kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực, chưa hoàn thiện toàn bộ phần mặt ngoài (đối với trường hợp bàn giao nhà, công trình xây dựng thô) hoặc chưa hoàn thành nghiệm thu hoặc chưa có văn bản chấp thuận kết quả nghiệm thu của cơ quan có thẩm quyền đưa công trình nhà ở, công trình hạ tầng xã hội vào sử dụng theo quy định.

Như vậy, Nghị định 16/2022/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng có hiệu lực từ 28/01/2022 đã tăng mức phạt tiền tối đa lên 1 tỉ đồng đối với chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản có hành vi bàn giao nhà chưa hoàn thành nghiệm thu. Trước đây, theo Nghị định 139/2017/NĐ-CP, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi này là 300 triệu đồng.

Ngoài mức phạt hành chính nêu trên, chủ đầu tư còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc dừng bàn giao nhà, công trình xây dựng, hoàn thành việc xây dựng hoặc buộc hoàn thành nghiệm thu hoặc có văn bản chấp thuận kết quả nghiệm thu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định.

HỒNG HẠNH

Sinh viên cử tuyển tự thôi học có phải bồi hoàn học bổng chính sách?

3. Quy định về thông báo, hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản

(LSVN) - Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 về việc hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Trong đó, quy định rõ về thông báo, hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản.

Ảnh minh họa.

Thông tư này hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản. Thông tư áp dụng đối với người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản.

Thông tư không áp dụng đối với trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu theo quy định của pháp luật. Trường hợp lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thông qua đấu thầu thì thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và pháp luật về đấu thầu.

Theo đó, tại Điều 6 Thông tư quy định về thông báo, hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản. Cụ thể, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản, người có tài sản thông báo công khai kết quả lựa chọn trên trang thông tin điện tử của mình (nếu có) và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản. Thông báo kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này.

Sau khi có kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mà người có tài sản nhận được thông tin của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc có kết quả xác minh khẳng định tổ chức đấu giá tài sản được lựa chọn cố ý cung cấp thông tin không chính xác hoặc giả mạo thông tin về tiêu chí trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn thì thực hiện như sau:

- Trường hợp chưa ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản thì người có tài sản đấu giá hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản đó;

- Trường hợp đã ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản và tổ chức đấu giá tài sản chưa nhận hồ sơ tham gia đấu giá của người tham gia đấu giá thì người có tài sản đấu giá hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản đồng thời đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản đối với tổ chức đấu giá tài sản đó;

- Trường hợp đã ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản và tổ chức đấu giá tài sản đã nhận hồ sơ tham gia đấu giá của người tham gia đấu giá thì người có tài sản đấu giá xem xét, quyết định hủy bỏ kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản và chấm dứt hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản nếu hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản có thỏa thuận về vấn đề này hoặc đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản vô hiệu theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày kết quả lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này, người có tài sản đấu giá căn cứ kết quả chấm điểm quy định tại khoản 1 Điều này lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản có tổng số điểm cao nhất liền kề để tổ chức cuộc đấu giá; trường hợp hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị chấm dứt hoặc bị Tòa án tuyên vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều này, người có tài sản đấu giá tổ chức lại việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản.

Người có tài sản đấu giá gửi Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi người có tài sản đấu giá và nơi tổ chức đấu giá tài sản có trụ sở, đồng thời đăng tải công khai trên Trang thông tin điện tử của mình (nếu có) và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản thông tin về việc hủy bỏ kết quả lựa chọn quy định tại khoản 2 Điều này và tổ chức đấu giá tài sản cố ý cung cấp thông tin không chính xác hoặc giả mạo thông tin về tiêu chí trong hồ sơ đăng ký tham gia lựa chọn quy định tại khoản 7 Điều 5, khoản 2 Điều này.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 25/3/2022.

HỒNG HẠNH

Vay tín chấp ngân hàng không có khả năng chi trả có bị khởi tố hình sự không?

4. Hướng dẫn xử lý các khoản nợ và tài sản khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước

(LSVN) - Đây là một trong những quy định đáng chú ý tại Thông tư 07/2022/TT-BTC ngày 09/02/2022 do Bộ Trưởng Bộ Tài Chính ban hành hướng dẫn bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập.

Thông tư này hướng dẫn việc bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và các khoản nợ, tài sản tiếp nhận, xử lý theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, tại Điều 7 Thông tư quy định rõ về xử lý nợ và tài sản đã tiếp nhận. Cụ thể, Công ty Mua bán nợ thực hiện các hình thức xử lý nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo quy định tại Nghị định số 129/2020/NĐ-CP và Quy chế tài chính của Công ty, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với các quy định hiện hành đối với từng hình thức xử lý nợ và tài sản. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì việc xử lý phải đảm bảo theo quy định của pháp luật về đất đai.

Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản bảo đảm khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để tổ chức bán tài sản theo phương thức đấu giá theo quy định.

Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản đảm bảo khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.

Đối với tài sản tiếp nhận theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trường hợp cần thiết phải sửa chữa, nâng cấp độ nâng cao hiệu quả xử lý tài sản theo quy định, Công ty Mua bán nợ được sử dụng nguồn vốn kinh doanh để thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền quy định và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Số tiền thu hồi được sau khi trừ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sửa chữa, nâng cấp tài sản, số còn lại được thực hiện theo quy định tại Điều 9 Thông tư này.

Đối với lô tài sản của 01 doanh nghiệp tại 01 địa chỉ:

- Đối với lô tài sản bao gồm các tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp trong lô có tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và Công ty Mua bán nợ chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.

- Đối với lô tài sản trong đó có tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức định giá có chức năng thẩm định giá để thẩm định giá và thực hiện như sau: Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thực hiện bán đấu giá theo quy định; Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn hình thức bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận.

Giá khởi điểm để bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận được xác định không thấp hơn giá thị trường hoặc giá do tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định (trong trường hợp thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá).

Trường hợp bán theo phương thức thỏa thuận mà có từ 02 người mua (là tổ chức, cá nhân) trở lên và trả mức giá bằng nhau thì thực hiện bỏ phiếu kín với giá khởi điểm là mức giá trả bằng nhau và người mua trả mức giá cao nhất là người được mua lô tài sản. Trường hợp người mua bỏ phiếu kín với mức giá bằng nhau thì tiếp tục bỏ phiếu kín đến khi có người mua trả mức giá cao hơn người mua còn lại theo nguyên tắc giá khởi điểm là mức giá đã trả bằng nhau của lần bỏ phiếu kín liền kề trước đó.

Một số trường hợp xử lý tài sản:

- Trường hợp bán đấu giá tài sản không thành công, Công ty Mua bán nợ điều chỉnh giá khởi điểm theo quy định để tiếp tục bán đấu giá. Mức giảm tối đa không quá 10% giá khởi điểm của cuộc đấu giá không thành công liền kề trước đó.

- Đối với tài sản không có giá trị thu hồi, tài sản cần phải hủy bỏ, tháo dỡ, Công ty Mua bán nợ phối hợp với doanh nghiệp tổ chức hủy bỏ, tháo dỡ hoặc thuê tổ chức bên ngoài thực hiện hủy bỏ, tháo dỡ.

Trường hợp bên nợ thanh toán đủ nợ gốc trong vòng 12 tháng kể từ ngày bên nợ cam kết trả hết nợ gốc thì Công ty Mua bán nợ xem xét xóa nợ lãi chậm nộp (kể cả tiền lãi chậm thi hành án trong trường hợp có quyết định của Tòa án) sau khi bên nợ trả hết nợ gốc theo cam kết.

Đối với khoản nợ không có khả năng thu hồi (bao gồm cả nợ xử lý trước thời điểm bàn giao) đã được Công ty Mua bán nợ theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trên 10 năm (bao gồm cả thời gian doanh nghiệp theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trước khi chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ), Công ty Mua bán nợ báo cáo Bộ Tài chính có ý kiến trước khi Công ty Mua bán nợ quyết định loại trừ, không tiếp tục theo dõi trên sổ sách theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 17 Nghị định số 129/2020/NĐ-CP.

Đối với nợ tiếp nhận theo chỉ định, Công ty Mua bán nợ căn cứ phương án xử lý nợ chỉ định được cấp có thẩm quyền phê duyệt và các hình thức, nội dung xử lý nợ theo quy định tại Nghị định 129/2020/NĐ-CP để xử lý.

DUY ANH

Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình

5.

 

 

 

 

Admin